Thời gian mới định cư ở Hoa Kỳ, khi đến cư ngụ khu chung cư nhiều
người Việt tôi đã thấy ông ta! Đó là người đưa thư, có bộ râu hung hung xồm
xoàm viền quanh miệng, khiến thoạt nhìn người ta thấy ông có nét một ông
già Santa Claus mỗi mùa Giáng-sinh!!! Nụ cười hiền, đôi mắt xanh mông
mênh màu biển, ông là người đều đặn mang niềm vui cho đám cư dân sống ở chung
cư, đa số mới từ Việt-Nam sang, thường ngóng những cánh thư ở quê nhà!
Ông ta trạc độ ngoài năm mươi, dáng dấp khỏe mạnh,
khó đoán tuổi cho chính xác vì bộ râu xồm xoàm đó! Mỗi buổi chiều, khi
chiếc xe của Bưu-Điện chạy vào con dốc đầy ổ gà, nơi đặt mấy thùng thư đã
thấy có người đứng đợi. Đa số là người già, không biết làm gì cho hết
ngày, đi lấy thư cũng là một cái thú!!! Ông ta bỏ thư vào từng hộp thư của
mỗi nhà trong xóm, xong lái xe đi, không quên giơ tay vẫy mấy đứa trẻ
đang chơi đùa trên khoảng sân trống.
Mãi cho đến một hôm, trời mùa đông lại mưa tầm tã, tôi thấy người
đưa thư ngừng xe trước cửa căn chung cư, rồi chạy ào vào hiên gõ cửa, đưa
cho tôi một lá thư. Lá thư của người bạn học từ Việt-Nam gửi sang, đề
trúng tên người gửi và địa chỉ "zip-code", nhưng thiếu số nhà của
căn chung cư, không hiểu sao ông ta lại biết là của tôi. Chính vì thế mà
tôi biết ông đọc được tiếng Việt, lại còn quen cả tên của người nhận thư,
rồi vì sợ thư không đến tay người nhận, thay vì trả lại cho Bưu-Điện, ông
mang thư đến thẳng nhà tôi!
Hôm ấy trời bão rớt, mưa suốt từ sáng đến chiều chưa ngớt, bầu trời xám xịt
khiến mùa Đông càng có vẻ rét mướt. Tôi cảm động nhận lá thư từ tay ông,
nhìn ông ướt át trong chiếc áo mưa màu vàng, những bụi mưa còn đọng trên
mái tóc đã ngả bạc với bộ râu hung hung viền quanh miệng. Ông hỏi, bằng
tiếng Việt:
"Xin
lỗi, có phải tên cô không?"
Tôi ngạc nhiên, vì lần đầu nghe ông ta nói tiếng Việt, chực nhớ lại bà
con trong khu chung cư, gặp nhau ngoài thùng thư vẫn hay nói chuyện này nọ
về xứ Mỹ và người Mỹ, có lẽ ông đã nghe được cả. Tôi nhận đúng là tên
mình, rất cảm kích vì tấm lòng của người đưa thư. Ái ngại khi thấy mưa vẫn
như trút nước, rặng cây ven đường như mờ mịt đi dưới màn mưa trắng xóa.
Tôi hỏi ông, bằng tiếng Anh:
"Ông
có vội lắm không? Mời ông vào nhà chơi, mưa lớn quá!"
Ông
nheo đôi mắt xanh nhìn trời, cười hiền hậu, nói một câu thành ngữ tiếng Anh:
"It's raining. . . cats and dogs..."
Đoạn
ông ta nói bằng tiếng Việt:
"
Mưa lớn quá, giống như mưa ở Việt-Nam!"
Tôi
mở to mắt nhìn ông thán phục:
"Ông
nói tiếng Việt giỏi quá, ông học ở đâu vậy?"
Người
đưa thư giơ tay vuốt những giọt mưa trên tóc,
trên mặt, giọng thoáng một niềm vui, thật xa vời:
"Từ
Việt-Nam. Tôi đã từng ở Việt-Nam, cách đây ba mươi năm. Việt-Nam luôn ở
trong trái tim tôi!"
Tôi mỉm cười, một câu xã giao mà người Mỹ nào cũng học qua, nhưng sao ở
người đàn ông này, tôi không thấy sự giả dối! Một lần nữa, tôi mời ông
vào nhà, không khách sáo, trước khi bước vào căn phòng ấm, ông tháo đôi
giày để ngoài cửa, giọng dí dỏm:
"Người
Việt thường cởi giày trước khi vào nhà, có phải vậy không?"
Ngạc
nhiên vì câu hỏi của ông, một người Mỹ hiểu cả thói quen của người Việt,
thật là hiếm, như vậy ông ta chắc phải tha thiết với xứ sở của tôi nhiều
lắm, tự nhiên tôi thấy có cảm tình với ông! Như hai người đồng hương đã
lâu không gặp nhau, ông thổ lộ:
"Tôi
nhớ Việt-Nam nhiều lắm, nhớ 'người' Việt-Nam
lắm!!!"
“Người Việt-Nam” ở
đây thì nhiều lắm, sao ông lại nói câu ấy với nhiều cảm xúc trong ánh mắt
mà tôi có thể nhìn được. Rồi đưa mắt nhìn khắp căn phòng được bài trí
theo kiểu Á-Đông, ông dừng lại một bức tranh trên tường vẽ cảnh mùa Xuân,
con ngõ nhỏ với hai hàng mai nở vàng thật đẹp. Ông thảng thốt reo lên, giọng
lơ lớ:
"Đấy
có phải là hoa mai?"
Tôi
gật đầu, cảm phục một người Mỹ biết nhiều về xứ sở của mình:
"Ồ!
Ông cũng biết hoa mai? Nó là loại hoa biểu-tượng cho mùa Xuân ở quê-hương
tôi, và chỉ nở vào mùa Xuân!"
Ông gật đầu, đôi mắt xanh thoáng một nét bâng khuâng, nhìn theo những sợi
mưa nghiêng nghiêng đan nhau trong khung trời mờ tối:
"Tôi
biết, vì cô ấy tên Mai, Mai là tên người yêu của tôi, cô học-trò bé nhỏ!"
Hình
như ông xúc động, yên lặng để dấu đi nỗi buồn. Tôi cũng ngạc nhiên không
ít, khi khám phá ra mối tình của người đưa thư, một mối tình có lẽ rất đẹp
mấy chục năm trước vẫn ấp ủ trong trái tim ông, từ những ngày trẻ tuổi!
Buổi chiều mưa hôm đó, một chiều mưa trên xứ người, nghe câu
chuyện tình của người đưa thư, tự nhiên tôi cảm thấy dâng lên trong lòng
một nỗi buồn rất Việt-Nam, cả cái không-khí lãng-đãng một chút ngậm-ngùi
theo từng giọt mưa rớt xuống hàng hiên ẩm-ướt! Trong
khi chờ mưa ngớt hạt, người đưa thư bồi-hồi kể tôi nghe chuyện tình của
ông ba mươi năm trước...
*
* *
David sinh trưởng ở Sacramento, thủ phủ của tiểu bang California. Vùng đất
phì nhiêu màu mỡ có rất nhiều cánh đồng trồng rau và trái cây, đủ cung cấp
cho hầu hết các tiểu bang của Hoa-Kỳ. Sinh ra trong một gia đình đông anh
em, cả nhà sống trong một trang trại trồng hoa quả vùng ngoại ô, David có
bản chất một người đồng quê rất hiền lành và thật thà, yêu thiên nhiên!
Học
hết Trung Học, David rời gia đình đến Nam Cali để tiếp tục việc học. Sau
bốn năm Đại Học, vốn bản tính hiền lành, thích làm việc thiện, David tình
nguyện sang Việt-Nam làm công tác giáo dục và thiện nguyện! Do đấy, chàng
có một thời gian dài đến gần bốn năm phục vụ trong các trung tâm Việt Mỹ,
dạy tiếng Anh cho những người Việt trẻ tuổi!
Lúc
ấy David còn trẻ lắm, mới hai mươi hai tuổi. Trước khi sang Việt-Nam,
chàng được học tiếng Việt sáu tháng, cho nên lúc đến Việt-Nam chàng đã bập
bẹ nói được những câu xã giao thông thường với người bản xứ.!Năm David
tới Việt-Nam, chiến tranh đang thời kỳ leo thang, nhưng ở thành phố tương
đối người dân vẫn sống trong yên bình, chưa nhìn thấy bao nhiêu sự đe dọa
của chiến tranh. David chỉ ở Sài-Gòn một thời gian ngắn, sau đó được đưa
về Cần Thơ. Chính nơi này, thành phố thơ mộng ven bờ sông Hậu, đã khiến
David lúc quay về Mỹ, mang theo một vết thương lòng!
David
đã có dịp đi lại mấy lần trên nẻo đường mang nhiều sắc thái miền Tây Nam
Phần, đó là quốc lộ 4. Những cánh đồng lúa bát ngát, những vườn cây xanh,
những mái tranh nghèo khuất sau hàng dừa rủ bóng trên giòng sông đục ngầu
phù sa, lắc lẻo nhịp cầu tre bắc ngang sông rạch. Chàng thích nhất những
chuyến phà qua sông Hậu-Giang, nhất là khi chiều về, vài cọng hoa lục bình
màu tím lênh đênh trên sóng nước. Phong cảnh Việt-Nam thật lạ lẫm, mới mẻ
nhưng gần gụi biết bao, không hiểu sao khi nhìn thấy miền đồng bằng sông
Cửu-Long lần đầu tiên, David đã cảm thấy yêu mến vùng đồng bằng, êm ả như
vùng quê nơi chàng sinh trưởng, dù mỗi nơi đều có nét khác biệt nhau!
Vì là nhân viên dân sự, David may mắn chỉ ở thành phố, không đối diện với
chiến tranh như những người lính Hoa-Kỳ tham chiến ở Việt-Nam, và cũng
không hề giao tiếp với giai cấp phụ nữ bám theo đoàn quân viễn chinh! Cho
nên, những ngày dạy học tại Trung Tâm Việt Mỹ, David thật thơ ngây khi lần
đầu tiên trong đời, chàng đã trao trái tim mình cho cô bé Việt-Nam, Mai
là một cô học trò rất chăm chỉ, ngoan hiền trong lớp học căn bản của
Trung Tâm này!!!
Mai đẹp lắm, ít là dưới mắt của David, một vẻ đẹp Á-Đông rất ưa nhìn. Mái
tóc đen mượt, đôi mắt đen láy như hai hạt nhãn, nét ngây thơ dịu dàng của
cô con gái Á-Đông khiến con tim chàng trai Mỹ mới biết yêu lần đầu, đã thổn
thức vì nhớ thương! Như câu ca dao Việt-Nam,"Yêu
ai yêu cả đường đi lối về",
David cũng yêu cái mênh mông của dòng sông Cửu-Long, yêu hàng dừa lơi lả
nơi bến sông, nhìn những đợt sóng nhấp nhô vào những buổi hoàng hôn,
David tưởng như nó chuyên chở bao nhiêu tình tự dân tộc, hiền hòa, vui tươi
và đầy thiện cảm! Mỗi buổi sáng, David say sưa ngắm nhìn những tà áo trắng
bay bay như những cánh bướm, trên chiếc xe đạp thong thả của đám nữ sinh
mỗi buổi đến trường. Cả thành phố dậy lên sức sống, người ta đi lại đông
đảo, đàn bà xách giỏ đi chợ, vài chiếc xe chất đầy rau quả, những đứa trẻ
con ngoan ngoãn đi học với nhau, chiến tranh hình như chưa hiện diện nơi
đây. David có được những tháng ngày thật tuyệt vời với công việc của
mình, một biệt thự xinh đẹp tọa lạc trên con đường trung tâm thành phố.
Năm ấy Mai độ mười bảy tuổi, tư chất thông minh cộng thêm nét ngây thơ của
cô bé mới lớn, đã chinh phục trái tim ông thầy trẻ tuổi. Cách biểu lộ
tình cảm của mỗi dân tộc có khác nhau, David không hề dấu diếm tình yêu của
mình với cô gái trẻ, trong khi Mai cố tình né tránh, dù nàng rất có cảm
tình với ông thầy vừa đẹp trai, lại rất hiền hậu nữa! Sau nhiều lớp ở
Trung tâm Việt Mỹ, Mai là một học sinh xuất sắc được chọn là người phụ
giáo cho những lớp học vỡ lòng, trong thời gian này hai người cùng làm việc
chung, David càng thấy gần gũi nàng hơn!!!
Với bản tính thẳng thắn của người Mỹ, David tỏ tình và đề cập với Mai về
chuyện hôn nhân, chàng nghĩ nó rất đơn giản
như bao cuộc hôn nhân trên xứ sở chàng. Nhưng điều làm cho David đớn đau
hơn cả, không ngờ Mai đã từ chối kết hôn với chàng, nguyên nhân chỉ giản
dị là không cùng chủng tộc, cha mẹ nàng coi đấy là điều không thể chấp nhận,
dù David là một chàng trai học thức! David không hiểu tại sao Mai không
quyết định được chuyện hôn nhân của mình, dù rằng Mai cũng cảm thấy mình
yêu thương chàng trai Mỹ tóc vàng, mắt xanh hiền lành ấy!!! David thắc mắc
thì Mai chỉ im lặng thở dài, rồi cho chàng biết những gia đình Việt-Nam bảo
thủ, không bao giờ chấp nhận chuyện con cái kết hôn với người ngoại quốc!
Sống
ở Việt-Nam khá lâu, ăn những món ăn Việt-Nam, học được cách cư xử của người
Việt, David hoàn toàn chấp nhận tất cả những đòi hỏi theo phong tục, tập
quán người Việt; nhưng vẫn bị từ chối! Thật sự chàng không thể nào hiểu nổi
dân tộc này, trong cái thân thiện bên ngoài hình như họ vẫn dấu kín những
thành kiến bí ẩn, có lẽ đã ăn sâu vào gốc rễ trong tâm hồn họ. Không lấy
được Mai, nhiều lúc thất vọng đến chán chường, David còn muốn tìm cái chết
để quên đi hình bóng diễm kiều của cô gái Việt! Cuối cùng, bị khủng hoảng
tinh thần, David không thể tiếp tục làm việc, với ý nghĩ một ngày nào đó
Mai thuộc về người khác!!! David được hồi hương trước thời gian ấn định,
lúc chia tay, lần cuối cùng gặp nhau, Mai đã khóc và nói với chàng:
"Nếu
không được kết-hôn với anh, em sẽ không bao giờ lấy ai nữa!"
*
* *
Câu
chuyện tình của người đưa thư tưởng đến đấy là hết, bất ngờ David hỏi tôi:
"Tại
sao dân-tộc cô lại có cái nhìn khe-khắt như thế? Một tình yêu khác chủng-tộc
có phải là điều tội-lỗi?"
Tôi bối rối nhìn ông, không làm sao cắt nghĩa cho ông hiểu. Đúng, tình
yêu tự nó đâu có gì tội lỗi, nhưng dưới con mắt lệch lạc của những người
có nhiều thành kiến, họ vẫn không chấp nhận! David lại nói tiếp:
"Ba
mươi năm nay tôi vẫn không quên điều đó, vẫn tìm-tòi văn-hóa Việt, và tôi
hiểu tại sao dân-tộc Việt-Nam không tiến lên được! Trong một vấn-đề
giản-dị đó, họ đã không có cái nhìn rộng-rãi, thì những vấn-đề lớn hơn, họ
cũng khó mà thay-đổi!!!"
Tôi
thở dài nói với David:
"Tôi
nghĩ không chỉ người Việt-Nam chúng tôi mới có quan-niệm thiển-cận như thế,
ngay những người Mỹ, cũng đâu có thích con cái họ lấy một người không cùng
sắc-tộc với mình! Hơn nữa người Việt-Nam lấy chữ hiếu làm đầu, cho nên ít
khi chống đối lại Cha Mẹ, và họ chấp nhận điều ấy như là một thứ định-mệnh
đã đặt để, ông thông-cảm cho! Nhưng thưa ông, đấy chỉ là những suy-nghĩ của
thời-gian đó, bây giờ mọi điều đã thay-đổi!!!"
Giọng
David đều đều như tiếng mưa rơi ngoài hiên, ông nói:
"Cô
có biết tôi đã đau-khổ biết bao nhiêu khi không lấy được Mai, tôi đâm
ác-cảm với tất cả người Việt vì lối suy-nghĩ của họ! Khi về nước, lâu lắm
tôi vẫn không quên được người con gái ấy, rồi lại nhớ đến câu nói cuối
cùng của Mai nói với tôi, tôi không nghĩ rằng Mai đã thực-hiện được. Khi
đất nước cô bị rơi vào tay Cộng-Sản, tôi vẫn hy-vọng là sẽ gặp Mai trong
đám người Việt di-tản sang Hoa-Kỳ, nếu cô ấy chưa lấy ai thì trên xứ sở
này, không ai cấm cản Mai kết-hôn với tôi cả!!!".
Tôi
ngắt lời David:
"Ông
có gặp lại cô ta không?"
David
gật đầu, đôi mắt xanh chợt buồn, để rồi lại toát ra
một tia nhìn ấm áp:
"Có,
tôi đã gặp lại Mai, nhưng bấy giờ tôi là người dừng lại, vì Mai đã là một
nữ tu đang săn-sóc cho đám trẻ mồ-côi đem từ Việt-Nam sang! Lần này tôi
thực sự cảm thấy mình không có quyền theo đuổi con người cao-quý đó! Mai
đã hy-sinh tình yêu, tuổi xuân để phục-vụ cho một nghĩa-vụ cao cả hơn, đấy
là tình nhân-loại! Tôi vẫn yêu Mai, nhưng không có quyền giữ lấy nàng làm
của riêng, khi nhìn thấy bản-chất cao đẹp trong tâm-hồn nàng!!!"
Giọng
ông ta chợt bùi ngùi:
"Đồng
thời, tôi cũng hiểu được ý-nghĩa lời nói của Mai, khi đã khóc và nói với
tôi câu nói cuối cùng trước khi chia tay nhau! Nàng là người con gái Việt-Nam
thuần- túy có những suy-nghĩ theo tính-cách của dân-tộc nàng! Nhưng trong
tình yêu, tôi hiểu nàng cũng yêu tôi, thích-hợp với đời sống và việc làm
của tôi, nhưng vẫn không dám chống đối lại Cha Mẹ! Để rồi cuối cùng, cô
đã chọn con đường ấy; con đường phục-vụ cho tha-nhân!!!"
Đôi
mắt xanh buồn buồn của người đưa thư lại hướng về bức tranh có những bông
mai vàng óng ả treo trên tường, thật dịu dàng ông nói tiếp:
"Từ
đấy, tôi muốn mình cũng như Mai, làm một điều gì đem lại niềm vui cho mọi
người, dù rất nhỏ nhoi! Nếu không hỏi cô, có lẽ lá thư này sẽ bị trả lại
cho người gửi, bạn cô mất đi một niềm hy-vọng, và ngay cả cô cũng mất niềm
vui được đọc một lá thư! Bao nhiêu năm
rồi tôi có nhiều cơ-hội để tìm một việc làm tốt hơn, nhưng tôi vẫn vui
thích với nghề-nghiệp hiện-tại, khi nghĩ mình đã đem đến cho mọi người những
gì họ chờ đợi, nhất là trong những muà Lễ, Tết! Tôi cũng hiểu rằng từ miền
đất xa-xăm nghèo khổ kia, họ đã phải tiết-kiệm như thế nào mới có đủ tiền
để gửi một lá thư cho người phương xa!!!"
Tôi cảm động nghe ông ta nói, tự thấy xấu hổ với mình khi chính tôi có
lúc đã rất hững hờ với những lá thư từ bên nhà gửi sang, cũng chỉ vì sợ
phải giúp đỡ! Ngược giòng thời gian, tôi như nhìn thấy mình trong quá khứ,
trong lúc cùng cực vẫn trông chờ một niềm hy vọng, vậy tại sao tôi lại
không có được tấm lòng như người đưa thư này! Lúc ấy, nhìn đôi mắt xanh của
ông ta, chòm râu hung hung viền quanh mặt, trông ông hiền hậu và dễ
thương như ông già Noel đem niềm vui cho trẻ con mỗi mùa Giáng-Sinh! Tôi
nói với ông rất thành thật:
"Tôi
cám ơn ông, một người Mỹ rất có tình với quê- hương tôi, dân-tộc tôi! Dù
trước kia ông đã bị đau-khổ vì sự suy-nghĩ của họ!!!"
Mưa
đã ngớt, chưa tới sáu giờ mà trời mùa Đông đã tối xầm lại. David đứng dậy,
ông còn phải trở về Bưu điện, đem theo những lá thư người trong chung cư
nhờ ông gửi giùm. Ông chào tôi rồi mang đôi giày vào chân, mỉm cười nhìn
những bóng đèn màu chớp tắt trên cây Giáng-Sinh ở góc phòng. Tôi nhìn
theo người đưa thư bước ra đường, lòng dâng lên một niềm ấm áp cho dù
đang là mùa Đông ở xứ người! Câu chuyện của David đã làm tôi suy nghĩ.
Tình yêu muôn thuở vẫn chỉ là Tình yêu, nhưng vượt lên trên đó, nó có một
sứ mệnh thật cao cả khi người ta nhìn ra cái
đẹp của nó, và sống với cái đẹp của tình yêu!!!
Giờ này, ở một nơi nào đó trên đất Mỹ, Mai, cô gái Việt-Nam năm xưa, có lẽ
nay đã đứng tuổi, vẫn hăng say phục vụ tha nhân trong lãnh vực của cô!
Không biết cô có hiểu rằng, chính tình yêu của cô đã làm cho David, người
đưa thư quen thuộc của khu chung cư, cũng đang đi con đường của người ông
yêu tha thiết năm xưa, cũng với mục đích đem niềm vui đến cho mọi người! Giá tất cả thế-nhân đều nghĩ đến nhau với một tấm
lòng như thế, thì có lẽ chiến-tranh đã chấm dứt từ lâu trên trái đất!!!
Nguyên-Nhung
Mùa
Giáng-Sinh
|
No comments:
Post a Comment