Luận Về “Ý TRỜI”
Trần Xuân Thời
Chúng
ta thường đinh ninh rằng mọi việc ở đời đều do Đấng Thiêng liêng quan phòng.
Nhưng quan phòng không có nghĩa là định đoạt. Quan phòng hiểu theo nghĩa quan
sát, nhận định, hướng dẫn, chứ không hiểu theo nghĩa quyết định, vì Tạo hóa đã
cho chúng ta lý trí để suy xét và tự do để hành động. Chỉ khi nào con người có
tự do hành động mới chịu trách nhiệm về hành động cuả mình. “God, in the
beginning, created man, he made him subject to his own free choice” Sir14:15.
Con người hữu lý khi tin rằng
“Hoàng thiên bất phụ hão tâm nhân ” (Trời không phụ người hiền đức) hay phúc họa
ở đời do phản dưởng có điều kiện (conditioned) tuỳ thái độ của con người. Khổng
Tử viết “Vi thiện giả, Thiên báo chi dĩ phúc, vi bất thiện giả,
Thiên baó chi dĩ hoạ” (Ai làm lành thì Trời báo phúc cho, ai làm điều chẳng
lành thì Trời lấy họa mà báo cho) và Luận Ngữ ghi “ Bất tri Thiên mệnh vô
dĩ vi quân tử giã” ( Không biết mệnh Trời thì không phải là người quân tử).
Ý
niệm về “Ý Trời” là ý niệm chung của dân gian được hiểu qua nhiều ý nghĩa khác
nhau tùy theo tín ngưởng. Chúng ta thử xét qua các ý nghĩa thông thường bàn bạc
trong triết lý nhân gian.
Người
ta thường nói:
“Sinh
tử hữu mệnh, phú qúy tại Thỉên”
hay
“Sống
chết bởi tại trời, giầu nghèo là cáỉ số. Dẫu ai ruộng sâu, trâu nái, đụn luá,
kho tiền, cũng bất quá thủ tài chi lỗ”. Của cải thế gian là những vật hư nát
nên những kẻ vi phú thường bất nhân không lo phân linh hồn thì cũng như những
tên mọi giữ của!
Nếu
tin hoàn toàn vào số mạng thì chúng ta đã tin vào thuyết định mệnh
(determinism). Một khi tin vào số mệnh thì con người có thể có thái độ tiêu cực
buông thả, không cố gắng, nhưng không tự trách mình mà phó thác cho số mệnh:
“Cũng
liều nhắm mất đưa chân,
Thử
xem con tạo xoay vẫn đến đâu.”
Tại
sao con người tin vào số mệnh? Có lẻ khi con người được tạo dựng nên ở thế trần
cảm thấy mình quá yếu đuối trước những mãnh lực thiên nhiên, tai ương khốn khó
như bão tố, động đất, hạn hán, lụt lội, bệnh tật, thú dữ… đối với con người cổ
sơ đó là những thiên tai trời định.
Từ
những sự bất lực đó, con người đã tìm giải đáp và cũng là nguồn an ủi là tin
vào thần linh. Thần linh có rất nhiều loại như thần hiền, thần dữ, thủy thần,
hà bá, sơn thần, thổ thần.... và con người thờ nhiều vị thần khác nhau tạo nên
tình trạng đa thần (polytheism) trong đạo giáo dân gian.
Người
Trung Hoa có tục ném thiếu nữ xuống sông tế thần Hà Bá, để thần hà bá vui lòng,
bớt giận, khỏi gây thủy tai, lụt lội mỗi khi sông Hoàng Hà hay sông Dương Tử ngập
lụt. “Hà bá lấy vợ”. Biết bao thiếu nữ chết oan vì sự sùng bái mê tín dị
đoan này. Người Việt có truyện Sơn Tinh, Thủy Tinh để giải thích nạn lụt lội
hàng năm ở sông Nhị Hà.
Ngoài
tín niệm chung của nhân gian, có những tín niệm có hệ thống như các hệ thống
tín lý của Khổng Học, Phật Học, Lão Học. Trừ các tăng sĩ, nho sĩ, trí thức; đa
số người bình dân Việt pha trộn cả ba học thuyết vào với nhau, hữu sự vái tứ phương,
trong cuộc sống hàng ngày như: “Lạy Trời, lạy Phật, lạy Thiên Tiên Thánh Giáo,
lạy Ông Bà, Cha Mẹ.... ban cho con được tai qua nạn khỏi.” Nhất là những lúc gặp
khốn khó thập tử nhất sinh.
Khổng
học là một triết thuyết về cách xử thế dựa trên nhân, lễ, nghĩa, trí, tín... Khổng
học tin vào Mệnh Trời (God’s Mandate). Trời trong tâm trí người bình dân là Ngọc
Hoàng, là Thượng Đế. “Thuận Thiên giả tồn, nghịch Thiên giả vong”. Thuận Thiên
thì sống chống Thiên thì
chết.
Sống
theo mệnh trời là sống có trung, hiếu, tiết, nghĩa nhằm hướng đến cái chí thiện
ở đời. Từ triết thuyết và luân lý làm người tốt và hữu dụng, triết lý giáo dục
theo quan niệm của Nho học cốt đào tạo con người trở nên chí thiện “Đại học chi
dạo, tại minh minh đức,.tạ thân dân. tại chi ư chí thiện.”, chứ không chỉ
học lục nghệ để mưu sinh.
Khổng
học còn một triết thuyết về phương pháp trị quốc an dân. Chương trình giáo dục
của Trung Hoa và Việt Nam suốt mấy ngàn năm văn hiến đều lấy Khổng học làm căn
bản như dùng Tứ Thư, Ngũ Kinh làm sách giáo khoa cho sĩ tử. Văn võ bá quan
trong các triều đại đều là những người xuất thân tu cửa Khổng, sân Trình, lấy
Khổng học làm phương châm hướng dẫn hành động.
Ngưòi
bình dân không cần đào sâu ý nghĩa của Thượng Đế trong Khổng học, thường chỉ
tin vào Thượng Đế là đấng thiêng liêng, tạo nên vũ trụ, trên tất cả mọi loài thể
hiện qua lời cầu khẩn: “Lạy Trời mưa xuống, lấy nước tôi uống, lấy ruộng tôi cầy,
lấy bát cơm đầy, lẩy khúc cá to”.
Phật
học, không giải thích số mệnh là do Trời, mà nhấn mạnh vào ý niệm “Nghiệp Chướng”
(Karma). Karma, hay nghiệp chướng, là một ý niệm đã có từ hàng ngàn năm trong
giáo thuyết của Ấn Độ Giáo (Hinduism) trước khi Đức Phật ra đời.
Ấn
Độ giáo tin vào thuyết, luân hồi, nghiệp chướng và nhiều vị thần
thánh khác nhau mà thần Siva là vị thần có nhiều quyền lực nhất.
Sau
Đại Hội Phật Học kỳ thứ II ở Ấn Độ thì Phật học chia làm hai môn phái Tiểu
Thừa (Hyuayana) và Đại Thừa (Mahayana).
Môn
phái Tiểu Thừa khai triển mạnh ở Ấn Độ, Tích Lan. Thái Lan, Miến điện….Môn phái Đại Thừa (Mahayana) của Phật học
không phát triển mạnh ở Ấn Độ mà phát triển qua Trung Hoa, Việt Nam…..
Theo
thuyết “Nghiệp chướng” thì mọi việc xảy ra ở đời này đều do kiếp trước truyền lại,
nói khác đi là do tiền định. Con người vốn sinh ra và lẩn quẩn trong vòng tử
sinh, sinh tử. Chết đi rồi lại đầu thai vào người khác hoặc sinh vật khác
gọi là luân hồi (rebirth hay reincarnation). Nếu kiếp này sống ác đức, tội lỗi,
thì khi chết có thề hoá thân ra con ruồi, con muỗi, con trâu, con bò.... để làm
thân trâu ngựa, cho đến khi được giải nghiệp, mới chấm dứt kiếp luân hồi.
Có lẽ vì hoá kiếp như vậy cho nên chúng ta không biết loài thú là hiện thân của
những linh hồn tội lỗi nào đó. Như vậy trong sinh vật có linh hồn vì thế không
được sát sinh.
Nói
khác đi, những gì mình chịu đựng hôm nay là do hậu qủa của tiền kiếp (pre
life), nghiệp báo. Ví dụ có người tin, sở dĩ chúng ta tha hương là vì nghiệp
báo, ông bà chúng ta đã chiếm đất Chàm, đất Chân Lạp, giết hại biết bao dân
lành nay bị nghiệp báo... Ca dao cũng có câu “Trời làm một chuyện lăng nhăng
ông hoá ra thằng, thằng hoá ra ông.”
Nghiệp
báo cũng là một loại định mệnh do kiếp trước ăn ở thất đức để lại. Do đó nhân
sinh phải tím cách giải nhiệp.
Phần
tích cực của thuyết Nghiệp báo là dù “Đã mang lấy nghiệp vào thân, cũng đừng
trách lẫn trời gần trời xa” nhưng mà nếu có “thiện tâm”, tu tâm, tích đức, ăn
hiền ở lành để tạo lập công đức có thể đạt đến trạng thái giải nghiệp (mosha).
Nghĩa là thoát ra khỏi vòng luân hồi nghiệp chướng vào cõi vô vi, niết bàn...
hay cõi Tây Phương cực lạc... Khi đó “Buổi sáng, sau khi thức giấc, có thể chu
du ba ngàn đại thiên thế giới mà còn đủ thì giờ trở về ăn sáng.”
Phương
pháp hay nhất là tu tiên, đến chốn cùng cốc thâm sơn để tu luyện, như Đức Phật
đã bỏ gia đình, vợ con, cha mẹ đế nghiệp của tiểu quốc Ca Tì La Vệ để lên núi
tu luyện theo như sấm truyền “Đức Phật sinh ra có 32 tướng tốt. Nểu làm vua thì
được vị, nếu xuất gia tu hành thì sẻ thành Phật.”
Phật
có nghĩa là người đắc đạo, thoát khỏi tục lụy xích xiềng của thế trần và nhất
là thoát vòng nghiệp chướng (mosha) và hiện nay đã có hàng hà sa số chư vị Phật
ngao du trên ba ngàn đại thiên thế giới.
Giải
thích về sự hiện hữu của vũ trụ và con người, Phật học cho rằng vũ trụ và con
người tự không mà có (The universe is from nothing). Bàn về thánh thần, Thượng
Đế, Đức Phật bảo đồ đệ chuyện dời chưa hiểu được, làm sao có thể hiểu được chuyện
thần thánh (Bất tri khả luận -agnosticism).
Có
thoát được nghiệp chướng hay không là do sức con người tự tạo lấy, “tự lực cánh
sinh” (self help approach), không nhờ vaò thánh thần nào giúp sức vì không biết
được có thần thánh hay không... Cũng do quan niệm thiếu tính cách thần linh mà
Phật học không phát triển mạnh được ở Ấn Độ, vì Ấn Độ là thế giới của thần
linh, mà phát triển qua các quốc gia khác.
Phật
học thiên về tu thân, tích đức để thoát vòng nghiệp chướng, lo tu luyện cá nhân
để mưu cầu phần rỗi mà không bận rộn về đời sống vật chất, xa lấn thất tình lục dục.. Sỡ dĩ cuộc đời
khổ cực là vì ham muốn và không thỏa mãn
đ ược sự
ham muốn, cho nên phương pháp hay nhứt là giệt sự ham muốn thì bớt khổ.
Đời
là bể khổ vì luân hồi nghiệp chướng, muốn thoát bể khổ phải tu trì để được đắc
đạo, thoát cảnh tái sinh. Người bình dân thường nói “Người hiền chết sớm, kẻ dữ
sống lâu”, có lẻ hàm dưõng ý nghĩa chết sớm để thoát trần ai khổ lụy là có phước,
kẻ dữ sống lâu để bị đọa đày, để đền tội. Vì nghiệp chướng quá nặng nề?
Phật
học không đề cập đến Trời, Thượng Đế, nên ý niệm “Ý Tr ời” có phần thể hiện
hậu quả của nghiệp chướng do tiền kiếp để lại. Có nghĩa là người bình
dân, nếu gặp trở ngại, đời sống khó khăn, gặp nhiều cảnh tai ương có thể an ủi
bằng câu “Tại vì nghiệp chướng của tôi như vậy”. Hoặc tại vì luật nhân quả,
nghiệp báo, kiếp trước làm ác, báo hại khiến kiếp sau lãnh đủ.
Người
theo Khổng học có thể giải thích “Ý Trời” là ý của Thượng Đế. Thượng Đế đã an
bài mọi sự. “Chung cục thì chỉ cũng tại Trời”. (Nguyễn Du). Kinh Thi ghi “Thượng
đế rất lớn soi xuống dưới rất rõ ràng, xem xét bốn phương, tìm sự khốn khó của
dân mà cưú giúp- Hoàng Hỹ Thượng Đế, lâm hạ hữu hách, giám quan tứ phương, cầu
dân chi mạc.”. Điều gì dân chúng ước ao thì Trời cũng chiều theo “Dân chi
sở dục, Thiên tất tòng chi“ vì đã là người, ai cũng đếu là con của Trời.-“Phàm
nhân giai, vân Thiên chi tử “. Ngươì là tiểu vũ trụ trong đại vũ trụ của
Trời Đất và cả hai là Một .“
Quan
niệm của Nho Sĩ thường có tính cách tích cực hơn là tiêu cực. Con người phải cố
gắng hết sức mình làm việc, nếu không đạt được thành công thì không còn tự
trách mình mà an ủi bằng mệnh số, đó là do “Ý Trời” như Nguyễn Công Trứ trong
lúc hàn vi thường tự an ủi: “Hữu kỳ đức, ắt Trời kia chẳng phụ.”
Người
Công Giáo khi nói đến “Ý Trời” tức nói đến “Ý Chúa”. Nhiều người nhớ câu “Sợi
tóc trên đầu rơi xuống cũng là do ý của Chúa”. Người Công Giáo tin rằng Thượng
Đế là đấng tạo nên trời đất, muôn vật.
Ý
Trời trong quan niệm của người Công giáo là kết quả công việc làm theo thánh ý
Thượng Đế. Vi phạm luật lệ không phải là do ý trời. Tại sao? Tại vì Thượng đế
sinh ra con người đã cho con người có lý trí để suy xét, và có tự do để hành động.
Tiêu diệt tự do cá nhân là trái với Thiên lý.
Không
có có công mà được thưởng, không có tội mà bị tù đăy, cấm cố, là vô nhân
đạo cho nên người Công giaó chống độc tài đảng trị là làm theo Thiên ý.
Giáo
hội quan niệm những kẻ theo chủ thuyết CS thì không còn là giáo hữu chân chính.
Bốn năm trước khi bàn Tuyên Ngôn Quốc Tế Cộng Sản ra đời năm 1848, Đức Giáo
Hoàng Piô thứ IX, năm 1946, đã tuyên bố” That infamous doctrine of so
called Communism which is absolutely contrary to the ntural law itself, and if
once accepted would utterly destroy the rights, property and possessions of all
men and even society itself” Cái học thuyết xấu xa gọi là chủ nghĩa
Công sản hoàn toàn trái với luật tự nhiên, và môt khi được chấp nhận, nó sẽ
tiêu giệt hết dân quyền, tài sản, quyền sở hữu của nhân loại và chính xã hội loài
người.
Thế
thì với lý trí để suy xét, tự do hành động, con người phải chịu trách nhiệm về
hành vị của mình. Giả thử Chúa sinh ra mọi người bình thường có thân thể và trí
tuệ giống nhau nhưng đời sống mỗi người lại khác nhau có phải đó là tại ý trời
hay không?
Yes
and No. Có và không. Có vì Ý Trời là ý mà Chúa an bài cho mỗi người, bất kể
lương hay giáo một vị thể khác nhau trong xã hội để mỗi người một việc thi hành
nhiệm vụ mà Trời đã giao phó vì tất cả nhân loại đều là con Trời. Tuy nhiên, phải
lưu ý là khi Trời giao phó sự việc cho mỗi cá nhân, dựa vào khả năng riêng biệt
của mỗi người do sự cố gắng và tự tạo và cho con người tự do hành động.
Hành
động thành công hay thất bại là do cá nhân. Những cá nhân có thành tâm thiện
chí thường là những người sáng suốt vì tâm hồn được bình an, tâm trí được thông
minh rất dễ thành công.
Không
phải là ý Trời, nếu ngược lại những cá nhân thích sống ích kỷ, hay ganh tị,
không hiểu vai trò đã được giao phó, có thái độ thù hận ganh ghét thì tâm hồn bối
rối, mất sự bình an, từ đó kém sáng suốt, vụng về và cá nhân phải chịu trách
nhiệm về thái độ của mình.
Nếu
chúng ta biếng nhác, không chịụ học hỏi, không chịu làm việc để lâm vào tình trạng
đói khổ, thua sút mọi người, say sưa, phạm tội, trí tuệ lụn bại, thiếu sáng suốt,
làm việc ngoài vòng cương tỏa, không làm việc hết mình, không theo thánh ý Thượng
Đế, thì kết quả chúng ta phải gánh lấy, không phải là ý Trời.
Như
thế, những gì con người thực hiện với thành tâm thiện ý tức là làm việc thiện
theo thánh ý Chúa, kết qủa đạt được hoàn hảo hay không, không phải là
quan trọng, điều quan trọng là chúng ta có cố gắng hay không? Có được ơn Chúa
soi sáng, được sự bình an trong tâm hồn, có cảm được sự hữu dụng của đời sống?
Thánh
Phao Lồ trước khi trở thành Kitô hữu đã tự ý giết hại Kitô hữu. Khi trở thành
tông đồ của Chúa vẫn cảm thấy ân hận về những việc ông đã làm (1Tim 1: 2-15).
Thiên
Chúa đã chọn Phao Lổ để nhắn nhủ nhân loại là kẻ có tội lỗi như Phao Lô cũng
còn thánh hóa được. Trong thư gởi tín hữu Thành Corinto, Thánh Phao Lổ đã viết:
“Tôi không xứng đáng được gọi là Tông Đồ của Chúa, nhưng nhờ ơn Phúc Ngài ban,
tôi mới được như ngày hôm nay”. “I am... not worthy to be called an apostle...
but by the grace of God, I am what I am (1Corinthians 15: 19-10).
Như
vậy, tội lỗi của quá khứ không nhất thiết làm cản trở cuộc sống trong tương
lai, miễn là có thành tâm hối cải sẽ được trở thành người hữu dụng.
Ý niệm nầy đã được hội nhập vào môn triết pháp. Luật pháp Tây phương dựa trên
nhân bản vừa ngăn ngừa tội phạm (determent) vừa gúp phạm nhân tái tạo
(restoration) lại cuộc sống, cho phạm nhân “a second chance” dựa trên sự cố gắng
cá nhân của mỗi người.
Luật
pháp nhân bản không chủ trương” thà giết lầm hơn bỏ sót hay trí, phú , địa hào,
đào tận gốc, trốc tận rễ ”mà ngược lại chủ
trương
“ thà bỏ sót hơn giết lầm”, cho phạm nhân hưởng lợi nếu bằng chứng buộc tội
chưa minh bạch (benefit of doubt).
Trời
tạo nên con người và rất chính xác khi điều khiển vũ trụ, cũng như biết rõ người
nào thích hợp để được giao phó trách nhiệm, sự xứng đáng đó dựa trên công việc,
sức cố gắng của mỗi cá nhân.
Trời
phán xét dựa trên công việc của mỗi người, chứ không phải dựa vào lời đàm tiếu
của người khác. “God judges us by what we do, not by what others say”.
Về
phương diện vũ trụ, sự chính xác của Thượng Đế thật mầu nhiệm, sự vận hành cua
các tinh tú, mặt trời, mặt trăng, quả đất đều được sắp xếp vận hành trong qũy đạo
một cách chính xác. Các nhân vật thông thái, các khoa học gia về vũ trụ là những
người khâm phục sự mầu nhiệm của Hoá Công và nhờ vào sự chính xác của Hoá
công mà họ đoán trúng những hiện tượng sắp xảy ra.
Họ
là những người chịu tìm tòi học hỏi, cố gắng tìm hiểu sự vận hành của vũ trụ để
đem kiến thức truyền lại cho hậu thế.
Thượng
đế đã tạo nên mọi sự, mọi sự đã có sẵn, phần còn lại là bổn phận của con người
phải tìm tòi học hỏi để hiểu biết ý định của Thiên Chúa. “Không biết mệnh Trời
thì không phải là người quân tử - Bất tri Thiên mệnh, vô dĩ vi quân tử giã” (
Luận Ngữ)
Ví
dụ, trong năm 1993, các nhà thiên văn học đã biết được rằng ngày 3 tháng 11 năm
1994 sẽ có Nhật thực kéo dài 4 phút, 51 giây. Nhật thực (eclipse) sẽ được thấy
toàn điện ở các qụốc gia Bolivia, Brazil, và biển Nam Đại Tây Dương.
Đó
là hiện tượng về thiên văn, về sự vận hành của vũ trụ do Thiên Chúa tạo dựng. Sở
dĩ các nhà Thiên-văn-học tiên liệu một cách đích xác mà không sợ sai là vì sự vận
hành của vũ trụ do Thiên Chúa tạo dựng một cách chính xác. Đến giờ phút nào thì
hiện tượng gì xảy ra, đó là “Ý Trời” trong
sự vận hành trật tự chung của vũ trụ (moral order of the universe).
Con
người có nhiệm vụ tìm hiểu và đoán được Ý Trời, nếu không thì xem như chưa tu
luyện đủ để đạt đến giai đoạn “Nhi tri Thiên Mệnh”.
Thịnh
suy thay đổi như bốn muà Xuân, Hạ Thu, Đông theo luât tuần hoàn của Tạo hóa. Chớ
nản lòng, hết cơn bỉ cực sẽ tới hối thái lai.
Sau
khi nghe Thúy Kiều tâm sự “Giác Duyên nghe nói rụng rời” và cùng Sư Tam Hợp Đạo
Cô khuyên nhủ Kiều:
“Sư
rằng “Phúc họa đạo Trời
Cỗi
nguồn cũng ở lòng người mà ra
Có
Trời mà cũng có ta
Tu
là cõi phúc, tình là giây oan” (Nguyễn Du)
Ai
dày công tu thân, tích đức, cố gắng học hỏi, làm việc sẽ hiểu được Thiên Ý, hiểu
được sự vận hành của vũ trụ, hiểu đươc thế thái nhân tình, hiểu được phương
cách làm việc, hiểu được đường hướng phải làm, được chương trình, kế hoạch phải thực hiện. Lòng Trời ở trong lòng
mỗi người. “Nhất nhân chi tâm, tức Thiên địa chi tâm”
Thiên
Chúa bảo chúng ta đừng bao giờ nãn lòng, (not lose your heart: Luke 18:1), phải
cố gắng làm việc, học hỏi (obligation to study) và cầu nguyện (pray) để được ơn
Thiên Chúa, được sự bình an trong tâm hồn, để được soi sáng, thì dù kết quả có
thế nào chăng nữa vẫn thể hiện thiện ý, vì:
“Thiện
căn ở tại lòng ta
Chữ
tâm kia mới bằng ba chữ tài
Có
tài mà cậy chi tài
Chữ
tài nằm với chữ tai một vần.”
Có
tài chế ra nguyên tử để làm điều thiện như làm máy phát điện, dụng cụ chữa bệnh....
là hợp “Ý'Tròi”. Nhưng dùng tài để chế vũ khí sát thương, bom nguyên tử
sát hại nhân loại tức là phản “Ý Trời” là gây tai họa thì Thiên bất dung gian.
Có
khoa học mà vô lương tâm sẽ gây bại hoại cho tâm hồn “Science sans conscience n'est
que ruine de l’âme”.
Sau
mùa Đông giá rét, nhân dịp Xuân về, muôn hoa đua sắc thắm thể hiện Ý Trời.
Chúng ta hãy làm việc hữu ích cho nhân quần xã hội, với thiện tâm, trong tình
yêu nhân hậu, giữ tình đồng hương, nghĩa
đồng bào. Sống theo
gương sáng từ bi, hĩ xã của Đức
Phật, trung hiếu tiết nghĩa theo Thiên mệnh của Đức Khổng Tử,
sống xứng đáng đạo làm người Việt cao qúy.
Các
học thuyết của Nho, Thích, Lão và Thần học không đối nghịch mà dung hợp thể hiện sự
viên mãn ( fulfilment) về nhân sinh quan và vũ trụ quan của nhân loại từ Đông
sang Tây, từ Nam chí Bắc trong tiến trình “Tri Thiên Mệnh”.
Đức Giáo Hoàng Gioan Phao Lồ
II, vào đầu tháng 11 năm 1999, đã công bố Tông Thư: Giáo Hội tại Á Châu:
“Giáo hội Công giáo tỏ lòng
cung kính và ngưởng mộ tất cả truyền thống tinh thần của các Tôn Giáo Á Châu
“thể hiện tinh thần tôn trọng và hoà đống
liên tôn.
Luôn giữ tâm thường an lạc,
dù vật đổi sao dời, chúng ta vẫn yên tâm sống đức hạnh “phú qúy bất năng dâm, bần
tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất” có chí thì nên vì:
“Trời
đâu riêng khó cho ta mãi
Vinh
nhục dù ai cũng một lần.”
Lạc
quan, tin tưởng, quyết chí tu thân và hành động chính thực là nhiệm vụ chung của
chúng ta thì thân sẽ không tật bệnh, tâm sẽ không phiền não, kết quả thế nào
chăng nữa thì cũng có thể yên tâm vì chúng ta đã làm việc hết mình, phần còn lại
là do “Ý Trời” vậy.
Gẫm thay muôn sự tại Trời.
Trời kia đã bắt làm người có thân.
Bắt phong trần phải phong trần
Cho thân cao mới đưọc phần thân cao” (Nguyễn
Du)
Trần
Xuân Thời
__._,_.___
No comments:
Post a Comment