Hân hạnh Fw
ACE. baì hơi daì nhưng giá trị đọc. Phú Vân.
----- Forwarded Message -->
Sent: Tuesday, February 23, 2016 11:30 AM
Subject: Bài viết hay về Trịnh Công Sơn.
Sent: Tuesday, February 23, 2016 11:30 AM
Subject: Bài viết hay về Trịnh Công Sơn.
Kính chuyển một bài viết hay. Của một người viết về người
bạn Trịnh Công Sơn của mình. Sau cuộc chiến, chúng ta có quyền gay gắt
nhìn về những lầm lỗi của TCS như chuyện đến đài phát thanh trong ngày CS chiếm
Saigon để hát nhạc Mừng Chiến Thắng cho đoàn quân Dép Râu.
Nhưng quan điểm của tác giả trong bài viết đã nhắc cho chúng ta về
một cái nhìn khác, bao dung hơn: chúng ta không thể cấm một nghệ sĩ nói lên sự
rung động của họ. Phản chiến, như trường
hợp Trịnh Công Sơn. Tác giả bài viết cũng nhắc rằng, trong những ngày nhạc
Trịnh Công Sơn (phản chiến) được hát ở Văn Khoa, có cảnh sát và quân đội bảo
vệ, trong một chế độ dân chủ của ở Miền Nam. Nếu một trường hợp như vậy xảy ra
trong chế độ của Cộng Sản Miền Bắc, chắc chắn TCS phải vào tù cải tạo.
Cái
nhược điểm của Dân Chủ là ở chỗ ấy. Nhưng cái sáng giá của Việt Nam Cộng Hòa
cũng là ở chỗ ấy. Vì Tự Do chính là cái
nôi cho những nguồn Sáng Tạo (là lý do tại sao Văn học Miền Nam lại quá hấp dẫn
đối với nhưng kẻ "Bên Thắng Cuộc" khi những người như nhà văn Dương
Thu Hương theo đoàn quân Dép Râu vào tiếp thu Saigon !!!
Chế độ vô nhân của Hà Nội, sau 40 năm tiếp thu
Saigon, thống nhất đất nước, cũng chỉ ngày càng chứng tỏ rằng: chỉ có CSVN mới có thể sản sinh ra một xã hội
Vô Đạo Đức ngày hôm nay, mà thương thay cho Dân Tộc ta, chẳng có tội tình gì,
mà phải lãnh đủ !!! Phải chi hồ-chí-minh đừng sinh ra thì hơn !!!
Mời đọc. (TG đã format lại cho dễ đọc). Bài này trích từ nuinhovungtau yahoogroups,
do anh Trương Đình Liêm và PhoTri chuyển...
THỨC (Trần Công Sung)
Gởi những người bạn Sài Gòn ngày xưa.
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?
(Vũ Đình Liên)
Hồn ở đâu bây giờ?
(Vũ Đình Liên)
Một ngày đầu tháng tư (2001), tôi lên phi trường Charles de
Gaulle đón một người bạn từ Việt Nam qua. Trên xe về Paris, anh ta hỏi: Cậu có
nghe tin về Trịnh Công Sơn (TCS)? Tôi gật đầu. Mấy hôm trước, có người gọi dây
nói cho hay TCS vừa từ trần.
Anh bạn nói đám tang Sơn rất đông. Người ta ở đâu đổ về như
kiến, chật cả đường phố. Quen có, lạ có. Không đủ chỗ đặt vòng hoa phúng điếu.
Tôi nói với ông bạn: Như vậy, cái xứ của ông vẫn còn văn minh, vẫn còn thuốc
chữa.
Đó là cái tin lạc quan nhất về Việt nam mà tôi được nghe từ
nhiều năm nay. Dostoievski[1] nói: Cái đẹp sẽ cứu vãn nhân loại[2]. Bỏ công ăn
việc làm, đến tiễn đưa một thi sĩ – TCS là một nhạc sĩ – thi sĩ – chứng tỏ
người ta còn nghĩ đến cái đẹp, người ta còn có tâm hồn.
Tự nhiên tôi nghĩ đến “Bác sĩ Jivago” của Boris
Pasternak. Cũng như Sơn, Jivago là một thi sĩ. Cũng như Sơn, Jivago bị cuốn hút
trong cơn lốc của lịch sử, bị quẳng vào một bi kịch kinh thiên động địa từ trời
giáng xuống. Như hàng triệu người Nga, Jivago bị đánh bạt ra khỏi gia đình, quê
hương khi cách mạng vô sản Nga ập xuống nước Nga, cuốn trôi tất cả: gia sản, vợ
con, bè bạn, tình ái trong một xã hội thay đổi tận gốc rễ.
Chỉ có một điều không bao giờ thay đổi: là một
thi sĩ, Jivago tiếp tục làm thơ. Lấy thơ làm nhân chứng, lấy thơ làm cái phao. Lấy
thơ làm một nguồn hy vọng để vươn lên. Khi Jivago chết, người ta ở đâu đổ về
rất đông, nhiều người không hề quen biết. Pasternak viết: người Nga yêu thơ, yêu
thi sĩ. Nghĩa là yêu cái đẹp, nghĩa là chưa hoàn toàn tuyệt vọng. Chỉ hoàn toàn
tuyệt vọng khi người ta không còn thiết tha đến điều gì, ngay cả cái đẹp. Đó là
nét lạc quan nhất trong một cuốn sách đầy thảm kịch : chiến tranh, tang tóc,
chia lìa, đổ vỡ. Một tia sáng loé lên trong bầu trời đen tối.
mưa vẫn mưa rơi…
Khi Charles Trenet[3] chết, hàng chục ngàn người kéo về đưa tang
một nhạc sĩ – thi sĩ hiện đại nổi tiếng nhất của Pháp. Đưa tang Trenet, người
Pháp, trong vài giờ, quên mình đang sống trong một xã hội vật chất, suốt ngày
túi bụi giành giựt. Trong vài giờ, thấy mình vươn lên, thấy đời có ý nghĩa hơn,
bởi còn yêu cái đẹp. Trenet viết: Những thi sĩ đã qua đời, nhưng tiếng hát của
họ vẫn bay nhẩy trên khắp đường phố.[4]
TCS đã qua đời, nhưng tiếng hát của anh vẫn bay
nhẩy trong các hang cùng, ngõ hẹp. Không phải chỉ ở Việt Nam, mà trên khắp địa
cầu. Người Việt, tan tác như một đàn gà mất mẹ, nương thân trên khắp nẻo đường thế
giới, mang theo những kỷ niệm quê hương, mang theo mùi nước mắm, mùi sầu riêng,
mùi phở và mang theo tiếng hát TCS.
Tôi đã nghe TCS qua tiếng hát nhừa nhựa khói thuốc của Khánh Ly,
tiếng hát thánh thót, không có tuổi của Thái Thanh, tiếng hát truyền cảm của Lệ
Thu; và rất nhiều tiếng hát vô danh, tiếng hát của những người sống ở ngoại
quốc nhưng chỉ nói tiếng Việt, của những người thuộc thế hệ sau này, hát TCS
với một thứ tiếng Việt pha giọng Mỹ, giọng Pháp, giọng Đức.
Tôi đã nghe tiếng hát TCS vọng ra từ những căn nhà ở New York,
Tokyo, Budapest, Athènes hay Palerme…Một buổi chiều tàn, trong một bìa rừng ở
Brésil (Ba Tây), cách Rio de Janeiro hàng ngàn cây số một nơi khỉ ho cò gáy, tưởng
như không có hơi người, tôi nghe một giọng khàn khàn vọng ra từ một căn nhà gỗ.
Mưa vẫn mưa bay trên tầng tháp cổ/Dài tay em với mấy thuở mắt xanh xao.
Người hát là một ông già gốc Ấn Độ, sống ở Việt nam từ nhỏ.Vượt
biển, thuyền đắm, ông già được tầu Ba Tây vớt, ở lại Ba Tây, làm nghề canh
rừng. Suốt ngày, lủi thủi một mình, tháng năm dài đằng đẵng, ông già Ấn mơ đến
những cơn mưa trên tầng tháp cổ ở một xứ ông đã nhận làm quê hương.
Một ngày ở ngoại ô La Havanne, trong một tiệm ăn nhỏ trên bờ biển,
nơi người ta bán lậu tôm hùm cho du khách (tôm hùm là tài sản quốc gia, chỉ để
xuất cảng hay bán trong những tiệm ăn quốc doanh), tôi nghe một giọng hát đàn
bà, rất trong, rất ngọt từ trong bếp vọng ra Ngày gió lớn tôi đi môi gọi thầm/
Gọi tên anh tên Việt Nam/ Gần nhau trong tiếng nói da vàng. Người hát là một bà
Bắc kỳ, từ Hà Nội tới Cuba, trong một chương trình hợp tác gì đó giữa hai nước
“xã hội anh em”, có lẽ đã mệt nhoài sau nhiều năm thề ăn gan uống máu quân thù.
Tác phẩm TCS đã đi sâu vào tâm hồn dân tộc. Nước ta có trên 80
triệu dân. Trừ trẻ con và những người không biết đọc, biết viết, có khoảng 50
triệu người làm thơ. Sự thực, không cần phải biết đọc, biết viết mới biết làm
thơ: tác giả những câu thơ đẹp nhất trong văn chương Việt Nam, ca dao, là những
người nông dân không biết đọc biết viết. Trong số 50 triệu người làm thơ, mỗi
thế hệ cho vài ba thi sĩ. Những thi sĩ đi sâu vào tâm khảm đám đông, gặp gỡ tâm
hồn một dân tộc còn hiếm hoi hơn nữa. TCS thuộc cái số hiếm hoi đó.
Sài Gòn, những ngày xáo trộn
Tiếng hát TCS đến với Sài gòn vào những năm 60, ở trường đại học
Văn Khoa Sài Gòn, nằm trên góc đường Gia Long – Nguyễn Trung Trực, ngay trung
tâm thành phố. Sơn ở Bảo Lộc trôi giạt về, lai vãng thường xuyên vì cái sinh
hoạt trẻ ở đó rất náo nhiệt. Trường đang rục rịch di chuyển một phần về cơ sở
mới gần sở thú Sài Gòn vì số sinh viên tăng rất nhanh, trường cũ không đủ chỗ.
Văn Khoa là trường đông sinh viên nhất ở Việt Nam. Xa rồi, cái trường Văn Khoa
đầu tiên ngoài Bắc, do giáo sư Cao Xuân Huy sáng lập năm 1949, với số sinh viên
vỏn vẹn có bẩy người, gọi là thất hiền.[5]
Trường di chuyển, nhiều gỉảng đường bỏ trống. Gọi là giảng đường
cho sang, sự thực đó chỉ là những căn nhà tiền chế. Tất cả những gì gọi là sinh
hoạt văn hoá xã hội của giới trẻ Sài Gòn kéo về, chiếm đóng những căn nhà tiền
chế. Một phần dành cho CPS (Chương trình Phát Triển Sinh Hoạt Thanh Niên Học
Đường), một phần dành cho hội họa sĩ trẻ, đoàn văn nghệ Nguồn Sống. Phần còn lại,
một số sinh viên chúng tôi tịch thu làm nơi tập trung, hội họp.
Hồi đó, người ta tự hào thuộc giới trẻ, có lẽ vì thất vọng với
những gì “lớp già” để lại. Gia tài của mẹ để lại cho con, gia tài của mẹ, một
nước Việt buồn. Họa sĩ trẻ, nhạc sĩ trẻ, ca sĩ trẻ… quên rằng người ta sớm muộn
gì cũng …già. Các “cụ” trong nhóm Người Việt, Thế Kỷ 21 ngày nay đều là những
người trẻ ngày xưa ở sân trường Văn Khoa.
Phải sống ở Văn Khoa những ngày ấy mới thấy sinh hoạt văn nghệ,
sinh hoạt xã hội là một nhu cầu thiết yếu của tuổi trẻ, và nếu có cơ hội, sinh
hoạt ấy bùng lên, tuổi trẻ bùng lên, đất nước không còn là một nước Việt buồn.
Sống ở đó rất tiện: Văn Khoa nằm ngay trung tâm thành phố, đi vài bước là tới
những tiệm cà phê nổi tiếng trên đường Catinat, vài bước là tới Khai Trí, tiệm
sách lớn nhất Sài Gòn, tha hồ đọc sách cọp.
Ông chủ Khai Trí là một người mê sách, muốn phát triển văn hóa,
ông ấy khuyến khích sinh viên đọc sách cọp. Nhà cửa điện nước đều của chùa, rất
tiện, trong khi hầu hết chúng tôi đều nghèo kiết xác, từ những ông họa sĩ trẻ,
những ông văn nghệ sĩ có tiếng nhưng không có miếng ở đất nước của Tản Đà, Văn
chương hạ giới rẻ như bèo, những ông ký giả đầu tháng đã hết lương, những ngày
cuối tháng khó khăn, nhất là 30 ngày cuối tháng, theo cách nói của Coluche[6],
đến đám sinh viên trong đầu đầy những mộng đổi đời, cải tạo xã hội và trong túi
không có đủ tiền uống một ly cà phê.
đại bác đêm đêm vọng về…
Từ 1963, sinh hoạt giới trẻ Sài Gòn cực kỳ náo nhiệt. Chúng tôi
sống ở ngoài đường nhiều hơn ở trong nhà hay trong lớp học. Hết biểu tình, hội
thảo chống đàn áp Phật giáo dưới thời ông Diệm, đến hội thảo, biểu tình chống
các chính phủ thi nhau lên xuống. Xuống đường trở thành một sinh hoạt thường
nhật. Giữa những cuộc biểu tình, những buổi hội thảo, thỉnh thoảng ghé vào
giảng đường học vài chữ cho phải phép. Đó là giai đoạn giới trẻ tham gia tích
cực vào đời sống chính trị xứ sở.
Với lòng nhiệt thành, và cố nhiên với đôi chút ngây thơ. Ngây
thơ tin vào sức mạnh vạn năng của tuổi trẻ, nhất là khi thấy chỉ vài buổi xuống
đường cũng đủ lật đổ một chính phủ, một ông tướng, một chính khách; và quên mất
rằng trong cái hỗn loạn của đất nước, người Việt chỉ là những quân cờ thí.
Trước Tết Mậu Thân, lớp trẻ Sài Gòn còn tin tưởng, chưa hoàn
toàn mệt mỏi, tuyệt vọng. Những ngày đầu thập niên 60, chiến tranh chưa thực sự
len vào thành phố, mặc dù hàng ngày vẫn đọc trên báo những cuộc đụng độ nẩy lửa
ở Pleiku, Cà Mâu, Đồng Xoài, Bình Giả; thỉnh thoảng chứng kiến những vụ pháo
kích; thỉnh thoảng họp nhau, nhậu vài két la-de, lạc rang, củ kiệu, tiễn một
người bạn lên đường nhập ngũ.
Chiến tranh còn ở xa, đại bác đêm đêm dội về thành phố/Người phu
quét đường dừng chổi đứng nghe. Dân Sài gòn chưa thấy tận mắt thấy những xác
người nằm chết như mơ, những xác người nằm bơ vơ dưới mái hiên chùa, trong giáo
đường thành phố, trên thềm nhà hoang vu.
Sinh hoạt trẻ Sài Gòn ồn ào, sinh hoạt trẻ Văn Khoa còn náo
nhiệt hơn nữa. Bên cạnh những hoạt động chính trị, những cuộc xuống đường, còn
rất nhiều những đêm không ngủ, những hội Tết, những đêm văn nghệ Nguyễn Đức
Quang, Nguồn Sống, những ngày túi bụi làm báo Xuân, nguyệt san Đối Thoại. Ở đó,
(và ở trụ sở Tổng Hội Sinh viên Sài Gòn), Phạm Duy ra mắt trường ca Mẹ Việt
Nam, Vũ Thành An ra mắt bài hát đầu tay. Chúng tôi, tuổi 20, kề vai nhau nghe
Lệ Thu ngủ đi em, mộng bình thường/ru em sẵn tiếng thùy dương đôi bờ, nghe Thái
Thanh ca tụng mẹ Việt Nam không son không phấn, mẹ Việt Nam chân lấm tay bùn
(nhạc Phạm Duy); và thực tình xúc động với cái viễn ảnh Việt nam quê hương đất
nước sáng ngời.
Cái viễn ảnh ấy, trong những đêm không ngủ, tựa vai nhau, chỉ
tưởng tượng cũng đã muốn khóc. Trước cái trống rỗng của hiện tại, và cái lo
lắng cho một tương lại mù mịt, người ta ngồi sát lại nhau, người ta nắm tay
nhau, xin chờ những rạng đông. Những câu hát đẹp như thơ của Sơn đã đi thẳng
vào lòng người.
Phong trào hoạt động xã hội cũng phát triển rầm rộ. Ảnh hưởng
của phong trào thanh niên chí nguyện quốc tế của Kennedy, những hội đoàn như
CPS, Thanh Niên Thiện Chí, Thanh Niên Chí Nguyện vv … mọc ra như nấm. Tuổi trẻ
tích cực tham gia những lần đi cứu trợ nạn lụt ngoài Trung, cải biến những xóm
nghèo ở thành phố, leo lên những làng Thượng dạy học, đào giếng, chữa bệnh. Có
anh tham dự vào những ngày cuối tuần, có anh bỏ học, hoạt động hai ba tháng,
nhiều khi cả năm. Đó là một tuổi trẻ còn đầy lý tưởng, còn yêu đời, yêu người,
còn đầy tình người trong mạch máu, ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau.
Điều đó chứng tỏ tuổi trẻ rất tha thiết dến dân tộc, sẵn sàng
đóng góp cho đất nước. Nếu họ thờ ơ với đất nước như người ta than phiền, lỗi
không phải ở họ: người ta đã không tạo cơ hội cho tuổi trẻ tham gia. Họ bị gạt
ra ngoài lề. Đất nước không còn là đất nước của họ.
đường phượng bay
Bìa album Sơn Ca 7 với Khánh Ly hát những tình khúc Trịnh Công
Sơn (1974)
TCS đến với Văn Khoa trong bối cảnh đó. Sơn không phải sinh viên
Văn Khoa; anh ở Huế vào, bỏ học vì hoàn cảnh gia đình. Những đêm trăng, chúng
tôi ngồi trên bãi cỏ trước quán Văn, nghe Sơn đàn, nghe Khánh Ly hát. Khánh Ly
sinh ra để hát TCS, cũng như Thái Thanh sinh ra để hát Phạm Duy.
Quán Văn là một ngôi nhà tiền chế, nằm giữa sân trường Văn Khoa.
Một nhóm thổ công Văn Khoa sửa sang lại, biến thành môt quán cà phê, làm nơi tụ
họp, gặp gỡ. Đúng là một cái quán, đơn sơ, nhưng đầy tình bè bạn. Giống như một
cái quán ở miền quê, nơi người nông dân ghé qua, uống một bát chè tươi, hút một
điếu thuốc lào, ngâm vài câu thơ, vài câu ca dao, tán gẫu với nhau sau những
giờ lao động. Ở đó, chúng tôi khám phá ra cái đậm đà của tình bạn, cái thi vị
của những buổi hẹn hò. Ở đó đã nở ra những mối tình, đôi khi dang dở, nhưng có
nhiều cặp còn keo sơn tới ngày nay.
Sơn, người nhỏ bé, gầy gò, ăn nói nhỏ nhẹ, ôn tồn (tôi chưa hề
thấy một TCS giận dữ, gây gổ bao giờ), Sơn trở thành bạn của mọi người một
người một cách rất tự nhiên. Đôi mắt tinh anh, láu lỉnh, nụ cười hiền lành như
một thầy tu, Sơn có cái phong thái của một thi nhân, cái khiêm tốn của một
người có thực tài. Từ cách nâng ly uống một ly rượu, tiếp chuyện với bạn bè,
cách trang phục, giản dị nhưng trang nhã, cái phong thái thi nhân ấy hiện diện
ở Sơn, thường trực, tự nhiên.
Đừng tưởng ông thi sĩ nào cũng có phong thái thi nhân. Sartre
nói về Heidegger, một triết gia hàng đầu mà chính ông chịu nhiều ảnh hưởng: “Có
những người ta chỉ nên biết tác phẩm, không nên biết đến con người, nếu không
muốn thất vọng”. Heidegger là một triết gia lỗi lạc, lại cũng là người theo chủ
nghĩa Nazi. Tôi đã quen những ông thi sĩ, tác giả những câu thơ rất đẹp mà lại
ăn uống, cư xử như một con heo đực.
TCS ở ngoài đời rất giống TCS người ta tưởng tượng khi nghe
những bản nhạc tình của anh.
Chúng tôi, mới đầu, ngạc nhiên thấy một gã người Huế, rất thanh
nhã, rất ung dung, từ tốn; không phải cái từ tốn của một ông già, mà là cái ung
dung quí phái của một con mèo, với nụ cười hiền hoà thường trực trên môi. Sơn
học chương trình Pháp, nhưng xử dụng tiếng Việt một cách tài tình.
Nhiều chữ rất tầm thường, với Sơn, chợt trở nên truyền cảm;
nhiều chữ do Sơn bịa ra, nhiều hình ảnh đến từ một trí tưởng tượng phong phú,
nếu không nghe Sơn giải thích, chắn chắn không ai hiểu. Mặc dù vậy, người ta
cũng vẫn rung động, vẫn thấy cái Sơn nói đến rất thực, rất gần gũi. Đó là cái
ma lực của chữ nghĩa, của thơ khi thơ đạt, khi chữ nghĩa có duyên nợ với nhau.
Nhiều chữ, nhiều câu rất cũ, đột nhiên ở Sơn trở thành rất mới. Nhiều chữ nhiều
câu rất cầu kỳ, đột nhiên gần gũi. Khi thất tình, người tình bỏ ta đi như
những dòng sông nhỏ, khi tuyệt vọng, mùa thu không về, mùa xuân
cũng ra đi, ngay cả khi nói đến chiến tranh tang tóc, xác người nằm như
mơ, TCS không lúc nào quên mình là thi sĩ.
TCS nói về những cái rất riêng tư, những kỷ niệm rất riêng tư,
qua một ngôn ngữ rất riêng tư. Và lạ lùng, cái riêng tư ấy của thi sĩ thấm vào
lòng người nghe. Người ta xúc động mặc dù không hiểu từng câu, từng chữ. Nhất
là trong những bản nhạc tình. Nói về chiến tranh, ngôn ngữ TCS là ngôn ngữ của
mọi người; chiến tranh là một tai họa chung, một thảm kịch của cả một dân tộc,
không phải là thảm kịch của một cá nhân, mặc dù mỗi cá nhân là một thảm kịch.
Một người bạn tôi nói khi nghe Sơn hát đường phượng bay mù
không lối vào, anh thấy hình ảnh rất đẹp, rất mới, nhưng không biết tác giả
nói gì, cho đến một hôm, ở một tỉnh nhỏ, anh thấy hoa phượng rơi, bị gió cuốn
mịt mù, đỏ rực cả con đường trước mắt.
Nếu không quen Sơn, ít ai biết trời cao níu bước sơn khê, nói đến một
người bạn gái tên Khê; ngàn
cây thắp nến lên hai hàng/ để nắng đi vào trong mắt em mô tả những tia nắng
cuối cùng của một buổi chiều tà đọng trên những ngọn cây, giống như ngàn cây
thắp nến.[7]
Ngôn ngữ TCS khác với ngôn ngữ Phạm Duy (PD). Ngôn ngữ PD là
ngôn ngữ ca dao. Hình ảnh của PD là hình ảnh của ca dao. Nhiều câu, nhiều hình
ảnh trong nhạc PD không hiểu là của PD hay mượn từ ca dao. Đó không phải một
lời chỉ trích; đó là một lời ca ngợi. Bởi vì dùng ngôn ngữ của một dân tộc, nói
lên tình tự của dân tộc không phải ai cũng làm được, là một điều rất đáng tự
hào.
Lời ca của PD ai cũng hiểu, hình ảnh của PD ai cũng đã từng
thấy, vì trong tiềm thức, chúng ta đã sống với ca dao từ hàng ngàn năm nay.
Trong một bài báo ngày xưa ở trong nước[8], tôi viết tiếng hát Thái Thanh không
có tuổi, vì đã làm say mê ba thế hệ. Tôi nghĩ thêm: tiếng hát Thái Thanh qua
nhạc PD không có tuổi vì chúng ta vẫn nghe từ hàng ngàn năm nay. Tiếng hát ấy
gợi ra trong đầu người nghe những cánh đồng lúa xanh, tiếng cười rúc rích của
cô thôn nữ, những làn khói lam trên những mái nhà tranh, tiếng chuông chùa ngân
nga, tiếng hò hát của người nông dân những ngày được mùa, tiếng nghẹn ngào của
bà mẹ mù mắt chờ con đi chinh chiến, tiếng than vãn của những đời lầm than, đen
tối. PD sống với ca dao, thở với ca dao, cười khóc bằng ca dao. Ít có người
Việt nam nào Việt Nam hơn PD. Có lẽ có một người: Nguyễn Bính. Nguyễn Bính là
ca dao, ca dao là Nguyễn Bính.
hai nghệ sĩ, hai cuộc chiến
Trên bãi cỏ trường Văn Khoa, trước quán Văn, TCS và Khánh Ly hát
trước hàng ngàn người hay chỉ năm, bẩy anh em. Không phải chỉ hát cho tình yêu.
Sơn càng ngày càng bị ám ảnh bởi chiến tranh. Từ hình ảnh lãng mạn của người phu quét đường dừng
chổi đứng nghe, chiến tranh trở thành cụ thể hơn, ghê rợn hơn :
Một buổi sáng mùa xuân
Một đứa bé ra đồng
Đạp trái mìn nổ chậm
Xác không còn đôi chân.
Nhạc tình TCS là những tiếng thở dài, có buồn cũng chỉ buồn
thoang thoảng: mùa đông vời vợi, mùa hạ khói mây, có trách cũng chỉ
trách nhẹ nhàng: từng người tình bỏ ta đi, như
những giòng sông nhỏ. Một thái độ rất thiền, rất ‘zen’: trên hai vai ta
đôi vầng nhật nguyệt, rọi suốt trăm năm một cõi đi về.
Nói về chiến tranh, TCS kêu gào, phẫn nộ. Chiến tranh không còn
từ xa vọng về như những ngày đầu, nó ở trước mắt: Xác người nằm trôi sông
phơi trên ruộng đồng/trên nóc nhà thành phố trên những đường quanh co. Cùng
với cuộc chiến càng ngày càng dữ dội, tiếng kêu gào của Sơn càng ngày càng thảm
thiết. Anh nói đến những em bé loã lồ,
suốt đời lang thang, đến những xác người nằm bơ vơ, dưới mái hiên
chùa, đến những trái mìn nổ chậm, người chết hai lần. Chiến tranh
trở thành khốc liệt, tang tóc đổ xuống dân tộc kinh hoàng.
Hàng vạn chuyến xe, claymore lựu đạn
Hàng vạn chuyến xe mang vô thị thành
Từng vùng thịt xương, có mẹ có em.
TCS của chiến tranh trở thành một người dở điên, dở dại, thất
thểu, chiều đi trên đồi
cao, hát trên những xác người. Hình ảnh bi thảm, ma quái. Một thi sĩ thất
thểu trên Bãi Dâu, hát bên những xác người. Đi trên đồi cao, bên cạnh xác người
là một hình ảnh bi thảm, nhưng hát bên những xác người, hình ảnh mang thêm một
cái gì ma quái, điên dại. Bi đát như chiến tranh với những con ngựa hý điên
cuồng trong tác phẩm Guernica của Picasso.
Ngôn ngữ TCS về chiến tranh khác với ngôn ngữ TCS về tình yêu.
Chiến tranh trong nhạc TCS cũng khác chiến tranh trong nhạc Phạm Duy. PD có
“cái may” sống trong một cuộc chiến tranh chống Pháp, có địch, có thù, chiến
tuyến phân minh. PD 24 tuổi lên đường tham gia kháng chiến, như hàng ngàn hàng
vạn thanh niên khác. Chiến tranh trong nhạc tiền chiến của PD nó hào hùng, nó
bừng bừng khí thế. PD tiền chiến không có cái cấu xé, cái dằn vặt. Cái chọn lựa
của PD nó hiển nhiên.
Nhạc PD không có cái lưỡng lự, nó là một tiếng quân ca, tiếng
gọi lên đường. Bên cạnh cái hào hùng là cái lãng mạn của một trí thức tiểu tư
sản ở tuổi 20, của một nghệ sĩ giầu tình cảm. Đó là cuộc chiến của những cô nàng gánh lúa cho anh đi diệt thù, của
những chiến sĩ dừng chân trên chiếc cầu biên giới tưởng tới người yêu ở
quê xa.
Điều đó không có nghĩa là trong nhạc PD không có cái bi thảm của
chiến tranh. Nhạc PD có Bà Mẹ Gio Linh lên đường đi kiếm xác con bị giặc chặt
đầu, có bà mẹ đón người con thương binh trở về, tiếc rằng ta đôi mắt đã loà
vì quá đợi chờ. PD nói ông làm tới ba bài người thương binh vì ông sống qua
ba cuộc chiến. Tác giả Con Đường Cái Quan nói ông khác xa những nghệ sĩ khác
thời tiền chiến vì họ chỉ làm nhạc hùng; trong khi ông nói cả đến cái bi thảm
của chiến tranh. Nhưng cái tàn phá của chiến tranh, cái thảm họa đổ lên đầu dân
tộc càng khiến PD thấy cuộc chiến tranh của mình có ý nghĩa hơn. PD thuộc những
người, như Malraux nói, không thích chiến tranh, (bởi vì có những người thích
chiến tranh, coi đó là lẽ sống) nhưng tham chiến một cách dứt khoát vì là
chuyện phải làm.
Cuộc chiến của TCS khác, cái nhìn của TCS khác.
Đối với Sơn, đó chỉ là một cuộc nội chiến tương tàn. Nạn nhân là nước Việt,
người Việt:
Hàng vạn tấn bom trút xuống ruộng đồng
Cửa nhà Việt Nam cháy đỏ cuối thôn
Lật xác người chết, chỉ thấy đồng bào, cha mẹ,
anh em:
Bên xác người già yếu có xác còn thơ ngây
Xác nào là em tôi dưới hố hầm này
Trong những vùng lửa cháy bên những vồng ngô
khoai
Những câu hát làm người ta nghĩ đến chiến tranh của Quang Dũng:
Mẹ tôi, em có gặp đâu không
Những xác già nua ngập cánh đồng
Tôi cũng có thằng em bé dại
Bao nhiêu rồi xác trẻ trôi song
Ngay cả ở cùng một thời điểm, cái nhìn về chiến cuộc của hai
nhạc sĩ cũng khác nhau. Với TCS, đó là một cuộc nội chiến mà người Việt Nam là
nạn nhân. Với PD, đó là cuộc chiến Quốc Cộng nối dài, mặc dù sau này, Phạm Duy,
vì cơm ăn áo mặc, hay vì một lý do gì khác, đã vứt bỏ cái hình ảnh của một nghệ
sĩ dấn thân, đánh đổi vai trò thần tượng của một thế hệ để đóng vai trò “hàng
thần lơ láo”. Ca ngợi cái chết của một phi công, Phạm Phú Quốc, PD nói:
Ðặt tên cho anh anh là Quốc
Ðặt tên cho anh anh là nước
Ðặt tên cho người đặt tình yêu nước vào nôi.
Viết cho một phi công khác tử trận, TCS không nói đến chiến
công, không ca ngợi anh hùng, chỉ nói đến một kiếp người:
Anh nằm xuống sau một lần đã đến đây
Đã vui chơi trong cuộc đời này
Đã bay cao trong vòm trời này.
Trong bài “Kỷ vật cho em”, thơ Linh Phương, PD phổ nhạc, có câu:
anh trở về bại tướng cụt chân. Nếu Sơn là tác giả, tôi nghĩ chắc Sơn
viết anh trở về vì đã cụt chân. Đối với Sơn, không có thắng có bại; chỉ
có người Việt Nam bị cuốn hút vào một cuộc chiến tương tàn. Nếu chưa bị cụt
chân thì còn đánh nhau. Đó là một cái nhìn cực kỳ bi đát về cuộc chiến.
nghệ sĩ và cuộc chiến
Trong cuộc chiến ấy, TCS không có chỗ đứng.
Người Cộng Sản không chấp nhận anh là chuyện đương nhiên. Với
người CS, không có chuyện lưng chừng, lưỡng lự, phân vân. Những người không
hoàn toàn theo họ là những kẻ thù. Những người chống Cộng lên án Sơn đã trở cờ.
Nhưng đọc kỹ những lời ca anh viết sau 75, không thấy một lời ca chứng tỏ anh
về hùa, tâng bốc nhà cầm quyền. Nó vẫn chỉ là những lời ca ngợi tình yêu; kêu
gọi tình anh em, nghĩa đồng bào. Không hề thấy hô hào thù hận, như Xuân Diệu
chẳng hạn, khi “nhà thơ của tình yêu” (!) kêu gọi đấu tố năm nào:
Lôi cổ bọn chúng ra đây
Bắt quỳ gục xuống đoạ đầy chết thôi
Bắt chúng đứng,cấm cho ngồi
Bắt chúng ngước mặt, vạch người chúng ra
Còn nhạc gọi là phản chiến trước 75? TCS chỉ làm công việc của
một nghệ sĩ: diễn tả cái thảm kịch của chiến tranh, cái đọa đầy của một dân
tộc. Ai mà không chia sẻ giấc mộng của Sơn: Khi đất nước tôi không còn giết
nhau, trẻ em đi hát đồng dao ngoài đường.
Một câu hỏi đáng được đặt ra: TCS có ảnh hưởng xa gần đến việc
miền Nam thua trận? Có thể. Rất có thể. Một người lính xúc động vì hàng vạn
tấn bom trút xuống ruộng đồng/từng vùng thịt xương có mẹ có em chắc chắn
không chiến đấu hăng say bằng những người cuồng tín. Một người lính than vãn
Ôi chinh chiến đã mang đi bạn bè
Ngựa hồng đã mỏi vó
Chết trên đồi quê hương,
chắc chắn không chém giết hữu hiệu bằng một người
lính suốt đời chỉ đưọc dạy ăn gan uống máu quân thù. Một quân đội
suốt ngày nghe (trên đài phát thanh nhà nước!) những câu:
Người già co ro,
Buồn nghe tiếng nổ
Em bé lõa lồ,
Khóc tuổi thơ đi,
... chắc chắn không xả súng tưng bừng bằng một cán bộ suốt đời
chỉ biết vực sâu thăm
thẳm, vực nào sâu bằng chí căm thù (Hò kéo pháo). Nhưng nếu cuộc chiến đấu của miền Nam có ý nghĩa, cái ý nghĩa ấy
chính ở chỗ nó cho phép mọi người, trong đó có nghệ sĩ, được tự do diễn đạt tư
tưởng của mình. Đó là cái yếu của một chế độ dân chủ, ngay cả dân chủ tương đối. Năm người mười ý, trống đánh xuôi, kèn thổi ngược. Đó cũng là
lẽ sống của một nền dân chủ. Đó là cái giá phải trả, bởi vì không có chọn lựa
nào khác. Nói theo kiểu Winston Churchill: dân chủ là chế độ dở nhất, nếu
không kể các chế độ khác.
Khó trách người nghệ sĩ bày tỏ sự rung động của mình trước cái
đau thương của đồng bào. Ngay cả Phạm Duy, tác giả bài ca tụng Phạm Phú Quốc, người đã
tử nạn trong chuyến oanh tạc miền Bắc,
Ðặt tên cho anh anh là Quốc
Ðặt tên cho anh anh là nước
Ðặt tên cho người đặt tình yêu nước vào nôi,
cũng đã kêu giết
người đi thì ta ở với ai? Khó trách nghệ sĩ bày tỏ sự rung động của mình.
Cái điều lạ, cái cảnh khó tin nhưng có thực, là những đêm không ngủ chống chiến
tranh ở Văn Khoa ngày xưa diễn ra ngay ở trung tâm Sài Gòn, với… cảnh sát, quân
đội giữ an ninh chung quanh sân trường. Nếu TCS sống ở miền Bắc, chắc chắn anh
đã bỏ mạng trong trại cải tạo, và chúng ta sẽ không bao giờ có được những Diễm
xưa, Tuổi đá buồn…
huyền thoại da vàng
Nhiều người trách cái ngây thơ chính trị của TCS. Nhưng cái ngây
thơ chính trị của nghệ sĩ, của trí thức là chuyện rất phổ thông. Chỉ cần nêu trường hợp Jean Paul Sartre, suốt đời hô hào ủng hộ
cách mạng vô sản, nhắm mắt trước cái dã man, chà đạp nhân quyền trong những goulag.
Chiến tranh, chính trị phức tạp hơn là tình cảm của nghệ sĩ.
Chẳng hạn, TCS day dứt về thân phận “da vàng” đến kiếp nô lệ “da
vàng”; hết tiếng nói “da vàng” đến dư khúc “da vàng”. Làm như cái bất hạnh của
dân tộc nằm trong cái nghiệp sinh ra từ mầu da, quên rằng nhiều dân tộc khác,
cũng vàng khè không thua gì người An Nam ta, đang tiến nhanh, tiến mạnh. Nhật
Bản đã làm Tây phương thất điên bát đảo trên mọi phương diện, Đại Hàn trở thành
một cường quốc, Trung Cộng sẽ là một trong hai lãnh tụ thế giới, và những nước
phát triển nhất trên địa cầu, Đài Loan, Singapore là những nước da vàng. Một
triết gia nói: “Có hai loại người, những người chấp nhận làm nô lệ và những
người không chấp nhận”. Vàng, xanh, trắng, đỏ không liên hệ gì đến thân phận
của một dân tộc. Ai đã gặp một người Nhật có mặc cảm da vàng ? Họ không muốn
thua ai, không muốn bằng ai, họ muốn trên mọi người, đứng đầu thiên hạ, họ
không biết hai chữ thân phận, vàng hay xanh.
Những câu hát phản chiến của TCS là những tiếng nói của tình
cảm, không phải là một phân tách chính trị, không phải những hô hào chính trị.
Đó chỉ là những giọt nước mắt, Giọt nước mắt thương đất, đất cằn cỗi bao
năm, giọt nước mắt thương dân, dân mình phận long đong, thoát ra từ trái
tim, mặc dù những giọt nước mắt đó, vì khả năng truyền cảm của nó, chắc chắn đã
có ảnh hưởng đến chính trị, đến chiến cuộc.
chữ nghĩa ích gì
Từ những năm 64-65, chiến tranh càng ngày càng dữ dội. Xã hội
càng ngày càng xáo trộn, tình hình chính trị càng ngày càng nát bét. Ngay cả
trong bối cảnh đó, trường Văn Khoa vẫn sinh hoạt mạnh. Số sinh viên càng ngày
càng đông. Ban giảng huấn đã rất tận tụy góp phần vào việc phát triển trường
Đại Học Văn Khoa Sài Gòn. Cố nhiên, đó chưa phải là một trường đại học tân
tiến, kiểu mẫu. Phương pháp giáo huấn còn cổ hủ, từ chương khoa cử, chưa thực
sự có đối thoại, trao đổi giữa thầy và trò. Nhưng ngay cả ở Sorbonne, cũng vẫn
còn cái cảnh ông thầy ngồi trên giảng đường, thao thao bất tuyệt, đám sinh viên
ngồi dưới hí hoáy biên chép như các cụ đồ ngày xưa dạy học.
Nền giáo dục Việt Nam thời đó hoàn toàn miễn phí, từ mẫu giáo
đến đại học. Trong một nước chiến tranh, thực hiện một nền giáo dục hoàn toàn
miễn phí là một cố gắng đáng kể. Người ta có thể chê trách chế độ rất nhiều
điểm, nhưng đó là một điểm son phải ghi nhận. Điểm son đó là nhờ ý thức của
những người có trách nhiệm, hay nhờ truyền thống tôn trọng học vấn của một xã
hội chịu ảnh hưởng Khổng giáo? Khổng giáo, ít nhất trên phương diện đó, có khía
cạnh tích cực với xã hội VN. Điều chắc chắn: nếu không có nền giáo dục hoàn
toàn miễn phí, hầu hết chúng tôi đã bỏ học từ lâu.
Một câu hỏi luẩn quẩn trong đầu tôi từ nhiều năm: một trường Văn
Khoa đóng vai trò gì trong một nước chiến tranh? Sách vở ích gì cho buổi ấy
? (Nguyễn Khuyến). Bên cạnh bom nổ, thịt rơi, cái sống cái chết gần kề, có
phi lý không khi ngồi đó mổ xẻ “Tứ thư ngũ kinh”, phân tích tư tưởng Socrates,
tìm hiểu nguồn gốc chữ Nôm. Bên cạnh cái nghèo đói của một xã hội lạc hậu, có
vô nghĩa không khi ngồi đó tụng niệm kinh điển bách gia, rung động với Lord
Byron hay Beaudelaire? Sartre nói: Bên cạnh một đứa trẻ chết
đói, cuốn La Nausée không có một giá trị gì.
Câu hỏi ấy lởn vởn trong đầu, rất nhiều năm, và tôi đã thực sự
nhiều lúc hoài nghi, không tìm được câu trả lời.
Câu trả lời, mãi sau này tôi mới tìm ra. Câu trả lời tên là
Céline, một cô bạn Pháp. Một buổi chiều thứ bẩy, tôi lên phi trường đón Céline
từ Sarajevo về. Céline là một thiếu nữ thông minh, có bằng cấp, có chỗ làm tốt
trong một công ty lớn, sống nhàn hạ trong cái xã hội hưởng thụ là cái xã hội
Pháp. Weekend bay qua Madrid hay Marakech. Mùa đông trượt tuyết ở
Courchevel, mùa hè nghỉ mát ở Bali hay Bora Bora. Tóm lại, cô nàng có đủ thứ để
hạnh phúc. Nhưng thay vì hạnh phúc, Céline lúc nào cũng tất tả ngược xuôi, mệt
mỏi cả thể xác lẫn tinh thần; nhất là tinh thần. Rồi thuốc ngủ, thuốc an thần,
hết Lexomil đến Prozac.
Một buổi, Céline dẹp hết, bỏ việc, bán nhà, bán xe. Và biệt tăm.
Adieu Céline. Cho đến cái hôm ở phi trương, tôi gặp lại Céline, nhưng một
Céline khác, má rất hồng và miệng rất tươi. Céline nói sau khi vứt bỏ mọi
chuyện, cô nàng gia nhập một ban hợp tấu, lưu diễn khắp nơi. Céline là một tay
violon thiện nghệ, từ nhỏ vẫn mơ thành nhạc sĩ. Céline lãnh một số lương tượng
trưng, đủ cà-phê, thuốc lá, vì ban nhạc thường đi trình diễn ở những nước
nghèo. Họ vừa ở Sarajevo về. Trình diễn hòa tấu ở Sarajevo, nơi người ta giết
nhau như ngoé, nơi người ta thí mạng để cướp một ổ bánh mì, một cái mền? Ở đó,
người ta chờ bột mì, thịt cá, đường muối, bột giặt, aspirine, ai chờ Beethoven
với Mozazt? Ban đầu, Céline cũng nghĩ như vậy. Nhưng đêm trình diễn nào cũng
đông nghẹt.
Trong một ngôi nhà thờ đổ nát, một trường học còn đang cháy dở,
mưa dột vì mái nhà bị pháo kích loang lổ, người ta chen lấn nhau tới nghe nhạc.
Ban ngày, người ta chạy bom, giành giựt nhau miếng ăn, một mớ củi để sưởi. Đêm
xuống, người ta kéo nhau đi nghe nhạc. Đàn bà lục hành lý, lôi ra những nữ
trang, những bộ quần áo đẹp. Có ông thắt cà vạt chỉnh tề. Có bà vừa nghe nhạc
vừa lặng lẽ khóc. Céline vừa chơi nhạc vừa cầm nước mắt. Cô nàng vừa tìm thấy
hạnh phúc. Chưa bao giờ cô nàng thấy yêu đời như vậy, yêu mình như vậy. Lần đầu
tiên, Céline thấy mình có ích. Cô ta tìm thấy hạnh phúc của mình trong cái hạnh
phúc của người khác. Y chang tâm trạng của lớp người trẻ chúng tôi ngày xưa khi
đi cứu lụt, đào giếng.
Céline nói có thấy tận mắt cái cảnh người ta lấy tờ báo che mưa
nghe nhạc trong một ngôi nhà đổ nát, mới thấm thía cái câu quen thuộc của người
Pháp: Người ta không phải
chỉ sống bằng bánh mì.[9] Ngay cả trong những lúc khốn cùng, cái đẹp, cái
thẩm mỹ không phải là một xa xỉ, vô ích. Cái đẹp sẽ cứu nhân loại, không phải
Marx hay Lénine, không phải bin Laden hay Bush.
Cái đẹp sẽ cứu vãn nhân loại.
Người ta đã từng giết nhau, hành hạ nhau, bỏ tù nhau nhân danh
thượng đế, nhân danh chính nghĩa, nhân danh giáo điều, nhân danh đất nước, nhân
danh đồng bào, nhân danh chân lý. Chưa bao người ta giết nhau nhân danh cái
đẹp. Người ta giết nhau vì thánh kinh, vì Coran, vì Hitler, vì Mao, vì Mác,
chưa bao giờ người ta giết nhau vì Picasso, vì Beaudelaire, vì Nguyễn Du. Sau
này, khi giận hờn sẽ
quên, những gì người ta nhớ lại về TCS là những bài hát, những câu thơ đẹp.
Cái đẹp sẽ cứu vãn nhân loại. Cái đẹp không phải chỉ là những
tác phẩm văn hóa. Cái đẹp còn là, cũng là, nhất là tình người, một xã hội của
những người tử tế, lương thiện. Đem cái dối trá, đểu cáng, bất nhân làm tiêu
chuẩn cho đời sống là cách hữu hiệu nhất để làm tiêu vong dân tộc. Biến Xuân
Diệu, tác giả của “tôi khờ dại quá,
ngây thơ lắm. Chỉ biết yêu thôi, chẳng biết gì”, của “ít nhiều thiếu nữ buồn không
nói, tựa cửa nhìn xa, nghĩ ngợi gì”, thành một người gào thét, căm hờn “lôi cổ bọn chúng ra đây”,
là thành quả ghê rợn nhất của công cuộc hủy diệt cái đẹp.
Ismail Kadaré nói ngay cả trong những lúc cực kỳ khó khăn vẫn
phải có thái độ nghiêm trọng đối với văn hoá. Kadaré sinh ra, lớn lên và viết
văn trong một hoàn cảnh cực kỳ khó khăn, ở một nước Cộng Sản độc tài bực nhất
thế giới: Albanie. Kadaré viết văn trong một xứ kiểm duyệt khắt khe, một nước
vỏn vẹn ba triệu dân, nghèo đói, người mù chữ đông hơn người biết đọc, biết
viết. Và viết bằng tiếng Albanie. Mặc dầu vậy, ông viết văn với một thái độ cẩn
trọng. Ngày nay, Kadaré được coi là một trong những nhà văn quan trọng nhất thế
giới.
Nghệ thuật, cái đẹp có công dụng gì? Chẳng có công dụng gì.
Nhưng đời sống không có cái đẹp sẽ buồn tẻ biết bao nhiêu. Bức tượng của Michel
Ange, bức tranh của Van Gogh không có công dụng gì, nhưng hãy tưởng tượng một
thế giới không có Michel Ange, Van Gogh. Hãy tưởng tượng Paris không có tháp
Eiffel, New York không Nữ Thần Tự Do.
Nghe cô nàng Céline kể chuyện về những buổi trình tấu ở
Sarajevo, tôi hiểu rằng trong một xứ chiến tranh, nghèo đói, một trường Văn
khoa chẳng có ích lợi thiết thực gì, nhưng nó là cái cốt yếu cho một dân tộc
còn muốn vươn lên.
đời sao im vắng
Tôi gặp lại TCS những ngày cuối cùng của năm 1999, khi về thăm
Việt Nam. Sơn ngồi trước một cái bàn nhỏ, trong sân Hội Văn Nghệ Sĩ gì đó ở Sài
Gòn. Vẫn nụ cười hiền lành, nhưng buồn bã, vẫn thái độ từ tốn, phong nhã,vẫn
đôi kính đồi mồi nhưng trước mắt tôi là một TCS lục tuần bịnh hoạn, mệt mỏi,
mặc dầu đôi mắt vẫn sáng lên khi nghe đến tin bè bạn. Sơn hỏi thăm tin tức về
người này ở bên Tây, người kia ở bên Mỹ. Sơn nói về những người ở lại, kẻ mất,
người còn.
Bơi trong cái áo sơ mi rộng thùng thình, Sơn nói: mình chỉ còn
39 kí. Sơn nói rượu đã tàn phá lá gan đến độ không có thuốc gì chữa nổi. Có
người sẵn sàng đưa anh đi ngoại quốc giải phẫu gan nhưng anh từ chối. Sơn nói
anh rất mệt, nhiều khi xây xẩm mặt mày vì bịnh áp huyết thấp (hypotension).
Vừa nói chuyện, Sơn vừa chào hỏi của những người qua lại. Vị
nhạc sĩ lão thành, tác giả bài Dư Âm nổi tiéng hồi nào ở Hà Nội (Đêm qua mơ dáng em đang ôm
đàn dìu muôn tiếng tơ…) kể chuyện đi thăm bác sĩ, chuyện thuốc men. Nhạc sĩ
Trần Tiến nói về đêm ca nhạc thành công tuần trước. Ông Vũ Hạnh chạy qua chạy
lại hối bài cho một đặc san kỷ niệm “cuộc chiến chống Mỹ cứu nước”.
Sơn ngồi đó, mỉm cười hiền lành, buồn bã. Tôi hỏi Sơn có tính đi
ngoại quốc chơi một chuyến, nhân tiện chữa bệnh, dù tôi biết Sơn đang sống
những ngày tháng cuối cùng. Nếu người nghiện rượu tiếp tục uống, dù có thuốc
thánh, dù có gỉai phẫu gan cũng không thay đổi gì. Sơn không muốn nghỉ rượu,
hay không nghỉ được. Sơn nói mình uống ít hơn trước nhiều. Sơn mỉm cười: mình
sang đó, sợ các ông ấy đập mình. Rồi tiếp: sự thực thì ở bên Pháp không có vấn
đề gì, bên Pháp ít có người quá khích; kỳ trước mình qua Pháp, anh em đãi ngộ
rất tử tế.
Sơn tiếp: nói cho đúng, mình mệt lắm, có muốn cũng không đi
được. Sơn nói, từ tốn, không lộ một chút xúc động. Anh đang ở một cõi khác,
những cái lăng nhăng ở cuộc đời này không liên hệ gì đến anh nữa. Nghe tôi sắp
đi Nhật, Sơn nhắc đến một cô sinh viên Nhật Bản đã làm một luận án về ngôn ngữ
và chiến tranh trong nhạc TCS.
Khi tôi ra về, Sơn đưa cho tôi số điện thoại ở nhà riêng: “Ráng
đến chơi, mình có chuyện muốn nói. Thằng em mình, biết cậu về, chắc nó mừng
lắm”. Em Sơn ngày xưa cũng la cà ở quán Văn.
Tôi nghĩ Sơn muốn nói những gì không thể nói được ở một nơi có
nhiều người qua lại. Tôi ân hận vì không có thì giờ tới nhà Sơn như đã hứa, vì
phải rời Việt Nam ngày hôm sau. Tôi rời Sài Gòn ngày mùng 1 tháng giêng năm
2000. Thế giới đang bước sang một thế kỷ mới. Tôi gọi điện thoại chào Sơn. Anh
hỏi: Cậu đi ngày đầu năm 2000, không sợ ‘“sự cố” à? Tôi nói sự cố nó sợ tôi chứ
tôi sợ gì nó. Hồi ấy, ở Sài Gòn, người ta kỵ đi máy bay ngày đầu năm 2000. Sơn
nói, giọng buồn: Nếu gặp lại X,Y cho mình gởi lời hỏi thăm; chắc mình không có
dịp gặp lại anh em nữa. Ôi chinh chiến
đã mang đi bạn bè. Ngựa hồng đã mỏi vó chết trên đồi quê hương.
Mỗi lần nghe nhạc TCS, tôi nghĩ đến cái cô đơn cùng tận của
người nhạc sĩ ngồi trước cái bàn nhỏ ngoài sân, mỉm cười với người này người
kia, nhưng đầu óc ở một nơi khác. Sơn ngồi đó, cô độc. Một mình tôi về với
tôi. Đem cái cô đơn của kiếp người nhân lên gấp mười, bạn có cái cô đơn của
người nghệ sĩ, nhân lên trăm lần có cái cô đơn của người nghệ sĩ Việt Nam, nhân
lên ngàn lần có cái cô đơn của TCS. Cái cô đơn của một người suốt đời ca ngợi
tình yêu, tình đồng bào, ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau, mà cuối cùng
bị chỉ trích từ mọi phía. Sơn ngồi đó, nâng niu cô đơn từng ngày…mà đời
còn nhiều đắng cay (Vũ Thành An). Sơn ngồi đó, một mình, giữa nhiều
người:
Đời sao im vắng
Như đồng lúa gặt xong
Như rừng núi bỏ hoang
Người về soi bóng mình
Giữa tường trắng lạnh câm
Cái sân chỗ Sơn ngồi đông người qua lại, và ngoài đường xe hơi,
xe gắn máy chạy loạn xà ngầu, nhưng Sơn ngồi đó, giữa tường trắng lạnh câm.
anh đã đến, đã vui chơi…
Sơn ra đi ngày 1 tháng tư 2001, hưởng thọ 62 tuổi. Sáu mươi hai
tuổi, đời người như gió
qua. Ở bên Pháp, ngày 1 tháng tư là ngày “cá tháng Tư” (poissons d’Avril),
ngày người ta đùa nhau bằng những chuyện hoàn toàn bịa đặt. Báo cho một ông nhà
văn hạng bét là ông ta vừa chiếm giải Goncourt. Thú với cô fiancée là đã
có vợ với ba con, rồi sau đó cho hay đó chỉ là những cá tháng Tư, những chuyện
đùa chơi.
TCS ra đi thật hay chỉ thả một con “cá tháng Tư”?
Sơn đã
đến, đã vui chơi trong cuộc đời này. Bây giờ có lẽ anh đang bay cao trong bầu trời
này. Nhưng, nhiều lúc, tôi tự hỏi có quả thật anh đã vui chơi trong cuộc
đời này. Có bao nhiêu người Việt nam đã thực sự vui chơi trong cuộc đời này?
(Paris, tháng 3/2011)
__._,_.___
No comments:
Post a Comment