Nụ cười xinh
Mũ xanh Phạm Văn Tiền
Một buổi chiều cuối năm, theo thường lệ mỗi ngày tôi đang chuẩn bị cho buổi
ăn chiều, thì có tin mừng từ Ban chỉ huy trại. Dũng, người tù hình sự rất
trẻ phụ trách chăn đoàn dê của trại chạy xuống thông báo cho biết là tôi:
“Chú Tiền có lệnh tha về rồi, có gì chú để lại cho con”. Dũng, dân Quảng
Bình, người mà tôi thương nhất, tuổi trẻ dám ăn dám chịu. Thấy vui thì đi
làm, còn không thì khai bệnh kể cả bị hình phạt kỷ luật. Tôi và Dũng có
nhiều kỷ niệm từ khi tôi được đưa ra phụ trách công việc chăn nuôi ở cái
chòi ngoài trại. Dũng ngang tàng không sợ ai vì trước đây anh là một tên du
đãng chuyên nhảy tàu, bán bãi cho người vượt biên. Có lần anh đã dám giết
một con dê của trại, sau đó báo cáo là thất lạc. Xác con dê chết để ở ven
rừng và mỗi ngày anh đều xẻ một ít thịt đem cho tôi, bảo là mua của dân
nhưng sau nầy tôi mới biết theo lời anh kể lại. Anh thường nói: “tụi Việt
cộng nầy gian ác lắm, sao chúng nó giam các chú hoài, còn bọn tôi đâu có
ngán gì chúng nó”. Mỗi lần như vậy tôi chỉ biết im lặng, vì qua quá nhiều
kinh nghiệm tôi chẳng dám tin ai!
Từ Bộ Chỉ Huy trại, tên quản giáo xuống bảo là hãy bàn giao mọi thứ cho anh
Hồ Lang - Trung úy cảnh sát đặc biệt - người không may mắn được tha về
trong đợt nầy. Tất cả đều được tập trung về Đoàn để làm thủ tục và nhận
giấy ra trại. Lần nầy gần 20 người, ngoài đám tù hình sự đã mãn hạn, còn có
thêm 4 người tù nhân chính trị bọn tôi. Ngoài Thiếu Tá Hồ Văn Liệu, Tiểu
Đoàn Trưởng ĐPQ Tiểu Khu Quảng Trị, còn lại 3 anh em TQLC chúng tôi là Phạm
Văn Tiền, Nguyễn Kim Chung và Trần Văn Loan. Chung và Loan được tha ra từ
nhà kỷ luật trại vì có những hành vi chống đối chế độ khắc nghiệt của trại
tù và không chịu học tập cải tạo, trong khi các bạn khác cùng cấp bậc đã
được thả về từ lâu rồi. Đó là cái ngày 20-1-1987, chỉ còn vỏn vẹn hơn 2
tháng nữa là đúng 12 năm tù. Đây là đợt thả tù ra trong dịp Tết.
Bao nhiêu năm đợi chờ và tin vui nay đến bất ngờ! Thương cho các bạn còn
lại của tôi: Cang, Liễn, Hữu, đặc biệt là anh Võ Đằng Phương Tiểu Đoàn
Trưởng Tiểu Đoàn 2 Pháo Binh TQLC, hiện không biết ở đâu khi bị kết án thêm
20 năm tù giam sau khi mãn hạn tù cải tạo. Mà án tù cải tạo là một mức án
dây thun mơ hồ, chỉ được tha khi cho rằng người đó đã cải tạo tốt. Như vậy
thì anh Phương sẽ ở tù suốt đời, theo luật rừng rú của chế độ cộng sản .Tội
lớn nhất của Anh là chỉ đòi hỏi những người thắng trận phải đối xử với
chúng tôi theo luật tù binh quốc tế, bằng lá thư do chính cá nhân mình viết
gởi thẳng đến Thủ Tướng Chính Phủ Cộng Sản Phạm Văn Đồng. Chúng đã mang xử
Anh trong một phiên tòa tại Huế, mà người bị cáo là người đứng lên chỉ
thẳng tố cáo lại quan tòa: “Các ông làm gì có luật pháp để mà xét xử, luật
của các ông là luật rừng.” Chúng đã còng tay Anh đưa lên xe bịt bùng chở đi
biền biệt sau phiên xử ấy. Tin sau nầy Anh đã được chuyển về Trại Kiên giam
ở Hàm Tân.
Cầm tờ giấy ra trại trong tay ngỡ như là một giấc mơ. Bao nhiêu năm mòn mỏi
đợi chờ, bao nhiêu năm khổ cực đọa đày, bao nhiêu năm nhung nhớ phân ly,
giờ là lúc tôi mò tìm về hạnh phúc. Một thứ hạnh phúc bình thường nhưng vô
cùng quý giá mà biết bao bạn tù tôi đã từng ao ước, nhưng không may họ đã
ngã quỵ dọc đường. Họ đã không bao giờ có được dù chỉ một tý mong manh
trước khi nhắm mắt lìa đời. Lúc đi ngang qua con đường dẫn về trại để đến
xóm dân tá túc qua đêm, tôi không sao cầm được những giọt nước mắt xót
thương cho những người bạn tù như Giỏ, Nhơn, Cát, Kế, Báu... đang nằm yên
trong phần mộ đầy cỏ úa bên vệ đường. Than ôi! các bạn tôi, những chiến sĩ
anh hùng đã sống hiên ngang bất khuất và chết trong sự trả thù đê tiện của
kẻ thù.Tôi tự nhủ lòng mình, nếu một ngày nào đó còn sống, chúng tôi phải
trở về nơi chốn nầy để vinh danh tưởng nhớ các anh.
Tá túc qua đêm ở nhà người lính Biệt Động Quân đang cư ngụ ngoài xóm dân
vùng kinh tế mới. Tôi đã quen từ lâu, hơn cả mấy năm trời, trong những lần
đi rừng, chặt cây, tìm rau,chăn trâu cắt cỏ. Càng thân mật hơn vì anh ta là
lính của một người bạn cùng khóa với tôi. Gia đình rất thiếu thốn đơn sơ,
nhưng đầy ắp tình người. Không chỉ có gia đình anh ta, mà gần như hầu hết
ai ở vùng kinh tế nầy đều là gia đình Ngụy của chế độ cũ bị đày lên vùng
kinh tế mới. Nên chuyện nghe tin tôi được về ai cũng mừng đến thăm và cầu
chúc tôi ngày mai thượng lộ bình an. Trong cực kỳ khổ đau mới đánh giá được
lòng người, thương tiếc cho một chế độ đã mất ngoài tầm tay!
Sáng hôm sau trong một ngày nắng ấm, tại bến xe khách từ Bình Điền về Huế,
tình cờ cùng chung với mấy cô giáo của huyện Hương Bình vào dịp nghỉ về quê
ăn Tết. Qua nhiều năm trời quen biết khi chúng tôi lao động chặt tre, đốn
củi trong rừng. Những lời chào hỏi dòn tan, đã làm gợi nhớ trong tôi về
những kỷ niệm vừa mới hôm nào tưởng chừng như đã mất. Bài thơ tôi đã đọc
chỉ vài tháng trước đây vào một trưa hè dưới những tàn cây phượng nơi sân
trường, để cám ơn những sự tử tế mà các cô đã can đảm dành cho đám tù chúng
tôi, các cô đã chuyển thư, nhắn tin cho đám tù chúng tôi được gặp gỡ gia
đình, nhận thư và chuyển quà lén lút, bất chấp mọi sự theo dõi của bọn công
an quản giáo. Chính nhờ sự tươi mát của các cô nên đã làm mềm lòng những
tên cán bộ dẫn giải. Nhờ vậy mà anh em tù chúng tôi có những giờ phút thoải
mái trong những lúc lao động vất vả bên ngoài. Xin cám ơn các cô giáo huyện
Hương Bình đã một thời tạo thêm nhựa sống cho những người tù chúng tôi
trong giai đoạn gian nan khổ sở nhất của một đời người. Bài thơ tôi đã cảm
tác trong một lần nghỉ trưa trước sân trường theo lời yêu cầu của các cô,
đáp lại sau những bản nhạc vàng mà các cô đã hát. Bài thơ có tên “Nụ Cười
Xinh”:
Buổi sáng lúc bình minh
Cô giáo mỉm cười xinh
Trên đường đi đến lớp
Chào các chú của mình
Buổi trưa trời nắng gắt
Những ánh mắt sáng ngời
Ngỏ lời mời các chú
Dùng tạm bát chè tươi
Buổi chiều trời tươi mát
Khi ngồi hát vu vơ
Cô giáo nghỉ bâng quơ
Giời chú làm gì nhỉ!
Ngày mai lúc bình minh
Trên đường đến Hương Bình
Thấy lòng mình trống vắng
Vì thiếu nụ cười xinh!
Cũng có những mối tình đẹp như mây bay gió thoảng của đám bạn tù độc thân
với vài ba cô giáo. Không biết có còn ai giữ được những tình yêu vàng ngọc
lãng mạn đó không. Nhất là cô giáo H và Trung uý phi công T trẻ, đẹp trai,
độc thân xứng đôi vừa lứa.
Mấy ngày lang thang cùng vài người bạn tù Huế được tha về trước, bạn nào
cũng vất vả vật lộn cùng miếng ăn với chiếc xe đạp thồ. Cực khổ tù tội đã
quen, nên không thấy ai than thân trách phận về công việc mình làm, vì dù
sao cũng còn có phúc hơn các anh em còn lại trong trại. Huế những năm tháng
bây giờ buồn quá, đường phố vắng hoe, nghèo nàn lạc hậu không còn dáng vẻ
Huế mộng, Huế mơ ngày xưa của một thời nữ sinh áo trắng. Người cộng sản
hoàn toàn giải phóng khỏi sự giàu có, phồn thịnh của Huế ngày nào. Dân của
Huế phân tán khắp nơi, kẻ vượt biên, người vượt biển, số còn lại bị đoạ đày
lên các vùng kinh tế mới xa xôi. Huế tan thương, rách nát như những ngày
Tết Mậu Thân 1968 “Tháng Giêng xua quân ra Huế, Cố Đô hoang vắng điêu tàn”.
Huế bây giờ chỉ toàn xe đạp thồ, dép râu và nón cối! Bao nhiêu năm tháng
hành quân vùng địa đầu giới tuyến, tôi yêu và thương Huế vô cùng, những
ngày từ núi rừng hành quân xa xôi tôi vẫn thỉnh thỏang về Huế để tìm một
chút ấm áp của đời lính chiến phong sương! Cảnh cũ nhưng người xưa đã biền
biệt đâu rồi. Không còn ai để mà nhớ nhớ thương thương, tất cả giờ đây chỉ
còn là những kỷ niệm đã qua của một thời chinh chiến. Hỡi những người muôn
năm cũ, chừ ở đâu bây giờ!
Một số bạn đã tiễn bọn tôi vào một buổi sáng tờ mờ sương tại sân ga xe lửa
của chuyến tàu thống nhất Bắc Nam. Cảm động nhất là đám trẻ tù hình sự đã
được tha về trước. Trong niềm vui có kèm theo nhiều xúc động, không biết
khi nào có dịp gặp lại nhau. Không biết rồi các em sẽ ra sao trong một xã
hội đầy bon chen, giành giật lường gạt nhau để sống. Hy vọng các em sẽ sống
tử tế hơn để khỏi phải vào lại trong tù. Xe lửa bắt đầu rời bến, vẫy tay
vẫy tay chào nhau, lần đầu và lần cuối cùng rồi xa nhau. Các toa trên
chuyến xe lửa tốc hành đều chật cứng dù đã có số ghế ngồi, nhưng mọi người
đều chen lấn giành nhau chỗ tốt. Ba anh em chúng tôi cùng ngồi chung một
dãy ghế, mặc dầu đã vất bỏ chiếc áo tù nhưng vẫn còn trên chân đôi dép râu.
Tàu vẫn chạy đều từ sân ga nầy đến sân ga khác, mùi hôi thúi từ các toa vệ
sinh bốc lên nặc khó thở. Đây là cái ưu việt mà người cộng sản thường huênh
hoang tuyên bố.
Rất nhiều người đến cho tiền và hỏi thăm vì đoán biết rằng anh em chúng tôi
là những người tù của chế độ cũ được tha vào dịp Tết. Điều nầy đã an ủi anh
em tôi rất nhiều, vì dầu sao mọi người vẫn còn yêu thương và tiếc nuối một
nền Cộng Hòa Dân Chủ đã qua. Sáng ngày hôm sau tàu cập bến Nha Trang với
quang cảnh đầy bát nháo của một phiên chợ Trời, mua bán giành giật tranh
nhau om sòm như bầy ong vỡ tổ. Còn chút tiền trong túi, chúng tôi ăn thỏa
thích. Nhịn đói bao nhiêu năm, bây giờ là lúc ăn lại để bù trừ. Đến xế trưa
thì tàu dừng bến tại căn cứ Sóng Thần và tôi đã xuống tàu, còn Loan và
Chung tiếp tục về đến ga Sàigon.
Đây là nơi hậu cứ của TQLC chúng tôi, nhưng rất xa lạ vì chung quanh đều
thay đổi. Trời đang nắng chang chang, tôi bỏ ý định tìm lại chốn xưa, nơi
nghỉ sau những lần về dưỡng quân, của một thời binh đao khói lửa. Đón chiếc
xe Honda ôm, nhờ người tài xế chở tôi về chợ Thủ Đức, nơi một thời vàng son
ôm ấp nhiều kỷ niệm suốt hơn mười năm trong đời quân ngũ. Thủ Đức vẫn còn
nguyên, xơ xác điêu tàn, sau hơn mười mấy năm xa vắng. Tôi tạt vào một tiệm
hớt tóc ở cuối phố, nơi mà ngày xưa tôi đã từng lui tới, người thợ trẻ ngày
nào vẫn còn đây, nhưng anh ta không thể nhận diện tôi là ai vì dáng điệu và
giọng nói của tôi thay đổi khá nhiều. Tôi tìm đến nhà một gia đình thân
quen cũ ngày nào, nơi mà những buổi chiều tôi thường lui tới để tìm mua
sách báo. Gia đình ông bà vẫn còn đây, nhưng con cái cũng có vài người đã
vượt biên an toàn đang sống bên Mỹ. Trong tình cảm quyến luyến ngày nào,
tôi thật sự xúc động vì những gì mà gia đình ông bà đã cho tôi từ xưa tới
giờ không có gì thay đổi. Tôi tự hứa là sẽ có dịp gặp lại thăm ông bà sau
khi ổn định được cuộc sống. Nhưng đó chỉ là lời hứa suông và tôi mãi hối
tiếc vì mình đã không làm được những gì mình muốn, hoàn cảnh đã không cho
phép trong những điều kiện vô cùng khó khăn, phức tạp trong cuộc sống mà
tôi đã vất vả bắt gặp phải khi mới trở về.
Nhờ đứa em trong gia đình chở tôi về Lái Thiêu, nơi tôi khôn lớn và chào
đời với nhiều kỷ niệm của một thời thơ ấu. Xuống xe tôi mò mẫm mãi nhưng
không thể tìm ra con hẻm để vào nhà. Gần 12 năm tù tội, thêm vào trước đó
tôi đã không được về phép hơn cả năm trời vì những cuộc hành quân liên
tiếp. Tất cả đều xa lạ đối với tôi, đồn Nghĩa Quân dưới tàn cây liễu đầy
bóng dâm mát giờ chỉ còn là một dãy nhà ngói lụp xụp, bên kia đường là
phòng y tế xã. Tôi hướng về nơi trại mộc An Bình của người bà con ngày xưa,
nay cũng không còn nữa. Chịu thua, tôi dừng lại để hỏi thăm nhiều người, từ
trong xóm xa mấy người cháu chạy ra hô to “Cậu Năm Tiền đã về”. Tôi bị bất
ngờ và lạc lõng hoàn toàn trong đám người đang vây quanh có lạ có quen.
Nhiều người mừng quá đã khóc trong khi tôi thật sự bùi ngùi xúc động. Cả
xóm làng thân thuộc ngày xưa nay cũng có kẻ còn người mất, như vừa trải qua
một cuộc đổi đời, tang thương biến cải. Hình mẹ tôi được đặt ở trên bàn thờ
giữa nhà còn đang nghi ngút khói nhang, mẹ vẫn ở mãi trong lòng con dù cho
ngày trở về của con đến muộn. Tôi khóc oà lên như một đứa bé nũng nịu với
mẹ ngày nào. Quê hương tôi còn đây, vẫn là những dòng sông bến cũ một thời
tắm nắng dầm mưa. Tôi thật sự muốn sống lại nơi yêu quý nầy cho đến cuối
cuộc đời, dầu cho phong ba bão tố. Nhưng liệu trong hoàn cảnh nầy tôi có
thật sự quyết định được hay không, còn vợ con ở tận mãi Cai Lậy Tiền Giang
từ ngày mất nước. Rồi đây tôi phải làm gì để sống?
oOo
Đáp chuyến xe đò Đồng Hiệp từ Lái Thiêu về Sàigon, bao kỷ niệm của thời thơ
ấu tuổi học trò như sống lại trong tôi. Cũng những chuyến xe nầy cách đây
hơn 28 năm về trước, tôi đã từng là chú học trò bé bỏng, hằng ngày đến
trường bằng thẻ học sinh được giảm phân nửa giá. Những ngày thi cử vui buồn
lẫn lộn, những thằng bạn thân ngày nào còn bao nhiêu, ai còn ai mất trong
một cuộc chiến tương tàn… Người tài xế chiếc Honda ôm mà tôi đang nhờ anh
ta chở ra bến xe miền Tây cũng là một sĩ quan vừa cải tạo về, đã cho tôi
biết về trường hợp cái chết của Trung Tá Huỳnh Văn L.. TQLC. Anh đã kể lại
câu chuyện thương tâm của người niên trưởng TQLC của tôi trong tù, anh biết
rõ về cái chết vô cùng đớn đau khi không còn chút gì hy vọng để mà sống.
Anh L đã nhảy vào chảo nước đang đun sôi trong lúc anh đang phụ trách nhà
bếp, khi hay tin người vợ thân yêu nhất đời mình đã ca bài “Sang Ngang” của
nhạc sĩ Đỗ Lễ. Ngoài anh L ra không còn biết bao nhiêu bạn tù khác cũng đã
rơi vào những trường hợp đau khổ tương tự, nhưng sự chịu đựng mỗi người một
khác không giống nhau, mặc dầu sự đau khổ nào cũng giống như sự đau khổ
nào. Một người bạn tù khác khi biết được tin vợ mình không còn yêu mình
nữa, bỏ đàn con dại cho người cha già nuôi hộ, đau khổ khóc suốt đêm. Hoàn
cảnh đổi thay lòng người thay đổi, người vợ trẻ ngày nào giờ phải đương đầu
với miếng cơm manh áo…. Xin ghi nhận và biết ơn tấm lòng chung thủy của các
bà mẹ, bà vợ tần tảo nuôi con, nuôi chồng trong sự mỏi mòn chờ đợi mỗi
ngày.
Nhiều người đặt ngược lại vấn đề, nếu các bà vợ của mình ở tù như chúng ta,
thì liệu những người chồng nam nhi chí khí chúng ta có còn giữ được lòng
chung thủy hay không? Sự so sánh đầy thú vị nhưng chưa ai tìm ra đuợc đáp
số. Một bà vợ rất đẹp, sắc nước hương trời ở cùng quê với tôi, chồng là một
Trung tá quận trưởng, cũng đã phải làm cái nghề mà người đời không ai chấp
nhận. Nhưng bà vẫn chu toàn bổn phận của mình, nuôi chồng nuôi con cho đến
ngày đoàn tụ và cuối cùng hạnh phúc đến với họ trong chương trình HO, hiện
các con hầu hết đã thành tài và đang sống hạnh phúc cuối đời tại thành phố
Wichita, Texas. Một anh bạn khác lòng mừng rỡ cầm tờ giấy ra trại trong
tay, về lại mái nhà xưa với mọi thứ quà mà anh đã nắn nót bao nhiêu năm
trời để làm vui cho đàn con yêu quý, nhà đã thay ngôi đổi chủ. Tin cho biết
là vợ con anh vượt biên và đã mất tích đâu đó ngoài khơi, trong một chuyến
tìm Tự Do ngoài biển cả. Tin như sét đánh ngang tai, nước mắt tuôn trào
tuyệt vọng, trong một buổi chiều hoàng hôn nhạt nhòa bóng đêm cùng tiếng
chuông chùa ngân vang bên xóm vắng, anh đã vất bỏ nợ trần và đã tìm đến nơi
câu kinh tiếng kệ. Nay người sĩ quan một thời cầm quân ra trận đã trở thành
vị Thượng Tọa ở một ngôi chùa bề thế tại Cali.
oOo
Xe dừng tại ven đường của bến xe quận Cai Lậy, vì được thông báo trước nên
cả gia đình vợ con tôi đang trông ngóng đợi chờ. Ngôi nhà tại trại Cửu Long
do đơn vị cấp vợ tôi đã bỏ từ lâu, về sống nhờ vào bên ngoại nên đã bị tịch
thu. Lâu lắm rồi tôi không được gặp lại vợ và 2 con của mình. Trong lần
thăm nuôi cuối cùng thì vợ tôi bị cướp mất hết đồ đạc khi xe dừng lại thay
nước tại bến Phú Tài, Quy Nhơn trên đường đến Huế. Nhờ một vị hành khách
tốt bụng cho tiền mua vé về lại quê nhà, vợ tôi đã bị bệnh nặng sau tai nạn
khủng khiếp đó. Trong thư gần nhất mà tôi được biết là sức khỏe bà rất yếu
và cầu mong tôi được sớm trở về. Gia đình cũng vừa nhận được quà của 2 đứa
em đã vượt biên và từ Mỹ gởi về, nay sự xuất hiện của tôi quả là điều hạnh
phúc vô cùng to lớn mà thượng đế đã ban cho. Đây quả là cái Tết đoàn tụ
hạnh phúc thiêng liêng nhất. Nhờ sự giúp đỡ của ông bà ngoại nên 2 con tôi
vẫn ăn học đàng hoàng, vợ tôi mập lại mạnh khỏe hơn xưa vì quá lạc quan khi
hằng đêm nghe qua các tin tức từ đài VOA, BBC về việc ra đi của người tù
cải tạo. Tôi cũng có nhận được cái “Letter of introduction” gọi tắt là
“LOI” từ Bangkok Thái Lan gởi về, nhưng chuyện được ra đi còn quá mơ hồ mà
tôi vẫn chưa dám tin là có thể trở thành sự thật. Nhưng dù sao thì những
người tù của chúng tôi vẫn còn chút hy vọng để mà sống.
Gia đình gồm vợ chồng và 2 con của chúng tôi được ra riêng ở một căn phố
của cha mẹ, mà người chủ thuê đã trả lại để về quê. Chúng tôi có một tiệm
tạp hoá nhỏ ở ngoài chợ, nhưng sống bằng nghề thợ bạc gia truyền của gia
đình. Lúc bấy giờ nhà nước cộng sản kiểm soát rất gắt gao về chuyện kinh
doanh vàng bạc, mọi việc mua bán đều phải qua cửa hàng quốc doanh. Nhờ vào
uy tín sẵn có và một số khách hàng quen thuộc ngày xưa, nên việc mua bán
lén lút cũng đã giúp chúng tôi trang trải được trong cuộc sống hàng ngày.
Mọi việc đều do một tay vợ tôi quản lý, còn tôi thì chẳng có việc gì để
làm, vả lại tôi còn trong thời gian quản chế. Làm ăn cứ bị thâm vốn, rình
rập và thuế thì lại gia tăng mỗi tháng, chỉ mua bán cầm chừng, còn tiền bạc
thì có bao nhiêu gom lại gởi vào các tổ chức tín dụng. Sàigon vào những năm
1989-1990 nhiều người giàu có đem tiền gởi vào công ty “Nước Hoa Thanh
Hương”, phân lời gần 13, 14 chấm. Ở các tỉnh nơi nào cũng có các hợp tác xã
tín dụng phường, xã. Cứ vào đầu mỗi tháng đi lấy tiền lời về xài thoải mái
mà chẳng cần làm gì thêm. Người giàu ngồi không cứ muốn giàu thêm, còn
người nghèo muốn làm ăn thì phải vay tiền theo phân lời cắt cổ. Cuối cùng
thì tất cả hệ thống cho vay tín dụng bị vỡ nợ hàng loạt. Người chủ “Nước
Hoa Thanh Hương” bị đi tù kéo theo các cơ sở tín dụng trên toàn quốc phải
đóng cửa, người dân tham lời tiền mất tật mang, trong đó có phần đóng góp
không nhỏ của gia đình tôi. Đó cũng là bài học để đời cho những ai tin vào
chuyện làm ăn của chế độ cộng sản.
Chuyện ra đi của những người tù “cải tạo” càng ngày càng sáng sủa thêm lên,
qua các tin tức nhận được từ nước ngoài, nhiều người đã bán hết đồ đạc
trong nhà để chờ ngày lên đường. Các con tôi được gởi lên Sàigon ở nhà
người quen học thêm Anh Văn và chuyện mua bán của vợ tôi cũng tạm ngưng khi
có lệnh làm hồ sơ đi Mỹ. Tiệm tạp hóa cũng đã sang cho người em vợ và chúng
tôi cũng không còn mua bán gì thêm, chuẩn bị lên đường sau khi gần như đã
hết vốn. Mỗi ngày qua đi là mỗi ngày chờ đợi mỏi mòn, cuối cùng rồi chúng
tôi cũng nhận được tin vui, khi người Bưu tín viên quận mang đến tận nhà
giấy được mời đi phỏng vấn. Những ngày gian nan khổ cực coi như đã qua, gia
đình chúng tôi được ra đi theo diện HO5, đến định cư tại Mỹ vào tháng
7-1991 qua trung gian bảo trợ của người em đã đi trước. Thành phố
Pineville, Tiểu Bang Louisiana là một nơi an lành, hẻo lánh, nhưng không có
một hãng xưởng nào để tìm ra việc làm. Đa số sống nhờ vào trợ cấp của nhà
nước và lao động ở các vườn ương cây “Nursery”. Mọi việc làm chỉ tùy thuộc
vào mùa Hè nắng ấm, còn mùa Đông thì thất nghiệp chẳng ai thuê mướn. Nhiều
bạn bè chiến hữu khắp nơi đã gọi phone khuyên tôi nên tìm đi nơi khác.
Qua trung gian của một người bạn cùng quê đã đi trước đang sinh sống tại
thành phố Arlington, Texas, cùng các niên trưởng, niên đệ trong gia đình
trường Võ Bị Quốc Gia, chúng tôi đã có một cái Tết tha hương đầu tiên nơi
xứ người vào đầu năm 1992, trong vòng tay ấm áp tình đồng hương ngay cả
những người chưa bao giờ một lần quen biết. Với những dòng chữ nầy, xin gởi
lời tạ ơn Trời, tạ ơn Người, tạ ơn tất cả những ai đã từng yêu thương, giúp
đỡ gia đình chúng tôi qua được những khó khăn trong những bước đầu mới hội
nhập về thành phố yêu quý nầy. Tôi nguyện sẽ ở đây và mãi mãi… Những người
bạn già, những niên trưởng của tôi đã lần lượt ra đi, và một ngày nào đó
rồi ai cũng có một lần dù không muốn nhưng chắc rằng sẽ tới. Nào ai tránh
được số Trời! Thành phố Arlington, nơi có cả một khu Palk-Park Stadium bao
la bát ngát, một sân Foot Ball khang trang với sức chứa hơn 100 ngàn người
vừa hoàn thành cách đây gần 2 năm cùng đội banh cà na Dallas-Cowboy nổi
tiếng. Đại học UTA nơi đào tạo nhiều nhân tài, các khu thương mại Người
Việt sầm uất, cùng sánh vai với Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia vững mạnh và
đang trên đà phát triển.
Ai cũng có một quê hương để nhớ, ai cũng cần có một ít nhất một lần để về
tìm lại nơi “chôn nhau cắt rún” của mình. Nhưng tôi vẫn chưa một lần về,
bởi vì vết đau của những lần tra tấn cùng sự đọa đày cùng cực của một chế
độ gian ác ngày nào, vẫn còn nhói buốt tận tâm can mình và chúng vẫn còn
tiếp tục hành hạ dân tộc tôi cho đến hôm nay. Tôi vẫn chưa có ý định về
trong lúc nầy, mặc dầu mỗi lần Xuân về Tết đến, năm nào tôi cũng ứa lệ nhớ
đến quê hương . Vẫn nhớ mãi “Nụ cười xinh” của các cô giáo huyện Hương
Bình, trại tù Bình Điền của một thời gian nan tù tội, ai còn ai mất sau
cuộc đổi đời nghiệt ngã tang thương!
Arlington vào những ngày cuối năm 2012
Mũ xanh Phạm Văn Tiền
|
No comments:
Post a Comment