Việt sử
và những
mùa Xuân Dân tộc
Nguyễn
Thu Trâm
Trong tâm thức
của người Việt, mùa xuân được coi là mùa của sự khở đầu, của sự phát triển, sự
hồi sinh của cuộc sống mới và một chu kỳ sống mới lại bắt đầu, mặc dù mùa đông
ở Việt Nam không quá lạnh giá và khắc nghiệt như ở một số nước ở hai đầu địa
cực nhưng mùa đông cũng được xem là mùa sự kết thúc, của u buồn bởi sự sống của
muôn vật dường như ngưng trệ trong chu kỳ này của thời gian. Chính vì vậy mà
người Việt chúng ta tổ chức lễ đón mừng năm mới vào Tiết Nguyên Đán, mà dần dà
bị biến âm thành Tết Nguyên Đán hay Tết, là lễ chào đón tân niên và bắt đầu cho
một mùa lễ hội mới: Mùa Xuân.
Cũng bởi
tâm thức này mà ngay khi vừa giành được độc lập ngắn ngủi thoát khỏi ách thống
trị của Nhà Lương là Lương Vũ Đế vào tháng 2 năm 544, Lý Bí đã xưng là Lý Nam Đế
và đặt quốc hiệu là Vạn Xuân với ước vọng đất nước chúng ta trường tồn mãi mãi.
Tất nhiên
sự trường tồn của đất nước, của dân tộc không chỉ là ước vọng riêng của vị
Hoàng Đế khai sáng nhà tiền Lý, mà đó cũng là ước vọng của toàn dân Việt. Cũng
bởi ước vọng đó về một đất nước Vạn Xuân mà bao thế hệ cha ông chúng ta đã
không tiếc máu xương, đã ngã xuống, vì nền độc lập, vì sự trường tồn của nòi giống.
Lịch sử Việt
tộc đã gắn liền với nhiều mùa xuân với những chiến công oanh liệt hào hùng
trong công cuộc dựng nước và giữ nước. Trong tinh thần ôn cố, tri tân, trong dịp
xuân về này, chúng ta hãy điểm lại những mùa xuân cả hào hùng cả bi thương của
dân tộc để chúng ta, những người Việt xa xứ và cả các thế hệ cháu con của chúng
ta nữa sẽ không quên được bởi ai, vì đâu và tại sao chúng ta phải có mặt ở nơi
này. Để chúng ta có thể đoán định về một tương lai cho mình, cho đất nước, cho
dân tộc.
Để chúng ta có thể hy vọng cho một mùa xuân hào hùng mới nữa của lịch
sử dân tộc, đang đến, sẽ đến để chúng ta, những người Việt xa xứ, sẽ không còn
phải sống đời lưu vong rồi phải gửi lại nắm xương tàn nơi xứ lạ, và đồng bào của
chúng ta ở quốc nội cũng sẽ không còn sống đời lầm than, đói nghèo, tủi nhục và
nhược hèn dưới ách thồng trị của bạo quyền.
Trước tiên
là những mùa xuân hào hùng của dân tộc:
Có lẽ mùa
xuân hào hùng đầu tiên của Việt Tộc là mùa xuân năm Đinh Tỵ 1077 với chiến thắng
trên sông Như Nguyệt, Bắc Ninh khi Lý Thường Kiệt đánh bại đại quân xâm lược của
nhà Tống là Tống Chiêu Ninh do Chiêu thảo Sứ Quách Quỳ và Triệu Tiết thống
lĩnh, diễn ra từ ngày 18 tháng 1 đến đầu tháng 2 năm1077. Với chiến thắng này,
quân dân Đại Việt do Lý Thường Kiệt chỉ huy đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng
chiến phạt Tống, Bình Chiêm lần thứ II từ 1075 đến1077.
Mùa xuân
năm Mậu Ngọ1258 diễn ra cuộc kháng chiến chống Nguyên-Mông lần thứ I, trong đó
nhân dân làng Xối Đông xã Trung Đông, huyện Nam Ninh, Nam Hà đã tổ chức ba đồn
binh cùng với một cánh quân của Nhà Trần đã đánh tan một đạo quân của Ô Mã Nhi ở
cầu Vô Tình, khi chúng sang sông cướp phá, rồi tiếp theo là cuộc phản công bằng
trận Đông Bộ Đầu ngày 29 tháng 1 năm 1258, đập tan âm mưu xâm lược Đại Việt của
quân Nguyên-Mông.
Mùa xuân
năm 1285 diễn ra trận phòng ngự ở Vạn Kiếp (2/1285) do Hưng Đạo Vương Trần Quốc
Tuấn chỉ huy, đánh thắng quân Nguyên-Mông trong cuộc kháng chiến chống
Nguyên-Mông lần thứ II.
Mùa xuân
năm Ất Dậu1288, Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn cùng quân dân Đại Việt đã
tiêu diệt hàng vạn quân Nguyên-Mông do Thoát Hoan, Toa Đô và Ô Mã Nhi thống
lĩnh, trên đường rút chạy đã làm nên chiến thắng Bạch Đằng lần thứ 2 vào ngày 9
tháng 4 năm 1288, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Nguyên-Mông lần III
từ 1287 đến1288.
Mùa xuân
năm Giáp Thìn1785 với chiến thắng Rạch Gầm-Xoài Mút vào ngày 20 tháng 1 năm
1785 người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ cùng quân dân Tây Sơn đã đập tan âm mưu
can thiệp của phong kiến Xiêm La, mở đầu cho các chiến dịch bình định nước nhà,
kết thúc cuộc chiến Nam-Bắc phân tranh của Trịnh Nguyễn kéo dài ngót 100 năm,
đã gây ra muôn vàn đau thương mất mác cho nhân dân cả đàng trong lẫn đàng
ngoài.
Mùa xuân Kỷ
Dậu 1789, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ cùng mười vạn binh và 100 voi trận đã đánh
tan tành 20 vạn quân Mãn Thanh xâm lược ra khỏi bờ cõi, thống nhất nước nhà sau
hơn 100 năm loạn lạc chia cắt do sự phân tranh của Trịnh - Nguyễn.
Và những
mùa xuân bi thương trong lịch sự của dân tộc…
Từ mùa
xuân Canh Ngọ 1930 lịch sử Việt tộc bắt đầu đi vào những trang đen tối, dân Việt
lại trở về kiếp đói rách, lầm than của đêm trường nô lệ sau khi đảng cộng sản
Việt Nam ra đời vào ngày 03 tháng 02 năm 1930 mà bắt đầu là nạn đói kinh hoàng
nhất trong lịch sử của dân tộc vào mùa xuân năm Ất Dậu 1945 với hơn 2 triệu đồng
bào đã chết đói... Họ chết, chết dần chết mòn kéo dài tận tháng 3 năm đó, trên
khắp các tỉnh thành của miền Bắc. Hai triệu người chết đói trong một mùa xuân của
dân tộc báo hiệu cho một thời kỳ bi thương, tối tăm và chết chóc dường như vô tận,
báo hiệu cho một nguy cơ bị đồng hóa, bị diệt vong của giống nòi, báo hiệu cho
một đại họa mất nước…
Nếu người dân Việt cứ tiếp tục nhu nhược úy kỵ, cứ tiếp tục
khom lưng cúi đầu cho những người cộng sản cưỡi cổ, đè đầu, tiếp tục cho đảng cộng
sản nắm quyền cai trị đất nước. Bởi sau mùa xuân Canh Ngọ 1930, sau mùa xuân Ất
Dậu 1945 với hơn 2 triệu người đã chết đói đó, thì đảng và nhà nước cộng sản Việt
nam còn ghi thêm vào sử Việt thêm nhiều mùa xuân đau thương và tang tóc nữa.
Mà
khởi điểm có thể là từ mùa xuân năm 1949 khi đảng và và nước cộng sản Việt Nam
tiến hành công cuộc cải cách ruộng đất kéo dài suốt 7 năm cho đến cuối năm
1956, trải qua 5 giai đoạn, đánh dấu bằng những sắc lệnh, ban đầu nhẹ nhàng và
mị dân, tiến dần đến sắt máu và triệt để với Sắc luật về Cải Cách Ruộng Đất do
Hồ Chí Minh ban hành ngày 14 tháng 6 năm 1955, cho phép nhà nước tịch thu toàn
bộ tài sản của những “tên Thực dân, địa chủ gian ác, cường hào ác bá, Việt gian
phản động”, truất hữu đất đai của các tôn giáo, gọi là để phân chia lại cho nông
dân không đất, gia đình thương binh, chiến sĩ, liệt sĩ.
Thành tích lớn lao của
công cuộc cải cách ruộng đất và đấu tố địa chủ được báo cáo chính thức cho chính
phủ Hồ Chí Minh là tổng cộng chiến dịch cải cách ruộng đất, đảng và nhà nước đã
tịch thu của địa chủ, phú nông 31.110 tấn thóc, 810.000 hecta ruộng, 106.448
trâu bò, 1.846.000 nông cụ, 148.565 ngôi nhà với 172.008 nông dân bị quy là địa
chủ và 15.000 người trong số đó đã bị hành quyết tại chổ, số còn lại bị đưa đi
cải tạo và hãm cho chết đói dần dần…
Thế nhưng chính việc quy định thành phần
xã hội, phân chia tài sản một cách bất công và với thâm ý tước đoạt quyền tư hữu
đất đai đã gây nên bao cảnh giết chóc cùng đổ vỡ. Và rồi những kẻ được phân
chia ruộng đất sau đó phải trả lại tất cả cho nhà nước qua Hợp Tác Xã.
Trong mấy
ngàn năm lịch sử dân tộc, có lẽ không biến cố nào đau thương bằng sự kiện ấy:
Đau thương vì đó là cuộc đảo lộn xã hội nông thôn Việt Nam một cách toàn diện từ
kinh tế, văn hóa đến luân lý do một chủ trương cải tạo nông nghiệp vô cùng tàn
nhẫn và phi nhân.
Vì đó là cuộc tàn sát trực tiếp lẫn gián tiếp xấp xỉ nửa triệu
nông dân chỉ trong thời gian ngắn mà không cần phải sử dụng đạn bom hay bất cứ
một loại vũ khi chiến tranh nào. Kết quả mà đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam
đạt được từ mùa xuân Kỷ Sửu 1949 này là sự suy sụp nông nghiệp, tan hoang làng
xóm, đổ vỡ tình người, băng hoại đạo đức, một ách nô lệ mới được khoác lên toàn
thể nhân dân miền Bắc: Nô lệ cộng sản.
Đến tận hôm nay, nhà cầm quyền CS vẫn tiếp tục tước đoạt quyền tư hữu đất đai của người dân, và các tòa án nhân dân vẫn tiếp tục là công cụ mà nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam dùng để bịt miệng, trói tay, giam thân những ai muốn đòi công lý và sự thật. Cho nên việc chúng ta nhìn lại cuộc Cải cách Ruộng đất là một kiểu ôn cố tri tân trên tinh thần mọi người dân Việt cần phải biết sử Việt để có thể làm lại lịch sử cho dân tộc.
Mùa xuân
bi thương tiếp theo mà đảng cộng sản mang lại cho đồng bào Việt Nam là mùa Xuân
Mậu Thân 1968. Ngay vào thời điểm Giao Thừa, tức là thời khắc thiêng liêng nhất
trong năm, khi toàn dân đang hân hoan tiễn đưa năm cũ và đón mừng năm mới, tức
là vào đêm 30 rạng ngày 31 tháng 01 năm 1968, cộng quân Bắc Việt đã đồng loạt nổ
súng tấn công vào tất cả các đô thị miền Nam, mang đau thương, chết chóc cho
hàng trăm ngàn dân lành và binh lính của cả hai miền Nam Bắc ngay giữa những
ngày đầu xuân tưởng như thanh bình và an lạc với hiệp ước hưu chiến cho nhân
dân hai miền Nam-Bắc được vui xuân đón tết. Thương đau hơn cả là 7.000 dân lành
ở Cố Đô Huế bị giết chết một cách vô cùng oan nghiệt bằng hình thức đập đầu và
chôn sống.
Tội ác lại
kéo theo tội ác, khi những nâm mồ của những nạn nhân cộng sản bắc Việt ở Huế
trong vụ thảm sát vào Xuân Mậu Thân 1968 vừa được cải táng chưa xanh cỏ, thì đảng
và nhà nước cộng sản bắc Việt lại tiếp tục mang đến cho đồng bào vùng tuyến đầu
lửa đạn thêm một mùa xuân đau thương nữa, đó là mùa xuân năm Nhâm Tý 1972, cộng
quân bắc Việt đã vi phạm Hiệp định Genève về Đông Dương năm 1954 đối với “Vùng
Phi Quân Sự”: Cộng quân bắc Việt đã xua quân tràn qua sông Bến Hải, tấn công,
cưỡng chiếm thị xã Đông Hà, rồi tiếp tục tấn công chiếm cổ thành Quảng Trị với
một chiến dịch quân sự kéo dài từ 30 tháng 3 năm 1972 cho đến31 tháng 01 năm
1973 gây đổ nát hoàn toàn tỉnh Quảng Trị mà sau khi tiếng súng tạm yên thì công
việc thu lượm xác chết phải kéo dài 7 tháng trời mới kết thúc.
Xin mọi người
hãy dừng lại trong phút chốc để tưởng niệm các đồng bào ruột thịt cùng các chiến
sỹ của QLVNCH vì bảo vệ tự do cho miền Nam mà đã đền nợ nước trong mùa xuânbi
thương năm Nhâm tý 1972 đó, và xin quý vị hãy tưởng tưởng xem bao nhiêu chục
ngàn đồng bào của chúng ta đã ngã xuống, để rồi công việc thu gom xác chết, do
Báo Sóng Thần đảm nhiệm, đã phải mất hơn nữa năm trời mới hoàn tất. Đây cũng là
công việc để nhắc nhớ chúng ta về tội ác mà đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam
đã mang đến cho dân tộc cho đất nước Việt Nam vón đã quá đau thương tang tóc vì
chiến cuộc này.
Nhưng đã hết
đâu! Chỉ sau đó đúng hai mùa xuân, thì cộng quân Bắc Việt với bom mìn với xe tăng
với đại pháo của Nga Sô và Trung cộng, đã ồ ạt tiến quân đánh chiếm miền Nam
vào mùa xuân Ất Mão 1975, bức tử một chính phủ hợp hiến, hợp pháp có lãnh thổ từ
Vĩ Tuyến 17 đến Mũi Cà Mau, xóa bỏ một chính thể Cộng Hòa đã tồn tại 20 năm
trên trường quốc tế và đã mang đến cảnh chết chóc tang thương cho hàng triệu đồng
bào miền Nam cùng những chiến sỹ là con em của dân Nam đang cầm súng chiến đấu
vì nền tự do của Nam Việt.
Đây là mùa xuân cuối cùng của người dân Nam, bởi sau
những ngày cuối cùng của tháng 4 năm 1975 đó, ở miền Nam đã có hơn 1.350.000 người
thuộc diện phải ra trình diện và đi cải tạo. Tính đến năm 1980 thì Phạm
Văn Đồng của chính phủ Việt Nam công nhận là chỉ còn 26.000 người đang còn bị
giam giữ trong các trại tù lao cải. Tuy nhiên, một số quan sát viên ngoại quốc
ước tính phải còn khoảng 300.000 đến 450.000 người vẫn đang bị giam cầm. Chính
Phủ Hoa Kỳ thì công bố rằng khoảng 165.000 người đã chết trong khi bị giam giữ
trong các trại cải tạo do đói khát, ốm đau và do bị tra tấn.
Đành rằng
không có cuộc chiến nào mà không có mất mác hy sinh, đành rằng không có cuộc
chiến tranh nào mà không có nạn nhân của chiến cuộc. Nhưng cuộc chiến tranh
huynh đệ tương tàn vì muốn áp đặt nền cai trị cộng sản chủ nghĩa lên toàn đất
nước, để áp đặt ách nô lệ cộng sản lên toàn dân thì tàn quả là quá tán ác!
Hình
ảnh của những đứa bé ngồi khóc bên xác mẹ giữa vùng chiến sự đang ác liệt nổ
ra, hay hình ảnh những em bé đang ôm bú bầu vú người mẹ đã chết lạnh nhiều ngày
vẫn thấy khắp nơi trên đường đi lánh nạn cộng sản suốt dọc quốc lộ số 1… Hình ảnh
những người cha, người mẹ thân đầy thương tích đang thẫn thờ bên xác của những
đứa con vừa tan tành vì đạn pháo của cộng quân cũng dọc đường quốc lộ… là những
hình ảnh quá thương đau mà chúng ta sẽ không bao giờ quên được…
Hình ảnh của những
người tù cải tạo khô gầy như xác ve, thều thào với các bạn tù là mong ước được
một lần ăn no trước khi lìa đời… Và hình ảnh của hàng chục ngàn nấm mồ hoang lạnh,
đầy cỏ dại chung quanh các trại tù có cho phép chúng ta quên được tội ác của cộng
sản Việt Nam không…
Hình ảnh những con thuyền bé nhỏ của từng đoàn dân Việt đi
tìm tự do đang chòng chành giữa đại dương trong cơn bão tố với những xác người
đã chết bên cạnh những người còn sống trong tuyệt vọng, vô hồn bởi đã nhiều
ngày lênh đênh trên biển cả, không nước uống không cơm ăn và lưỡi hái của thần
chết đang chực chờ bên cổ họ từng phút từng giây… có cho phép chúng ta quên đi
cảnh thương đau của chính chúng ta cũng như của cả dân tộc Việt Nam, bởi tội ác
của những kẻ đã du nhập chủ nghĩa cộng sản về để truy diệt giống nòi và tàn hại
đất nước hay không?
Khát vọng của Lý Nam Đế về đất nước Vạn Xuân, về một đất nước
trường tồn nay có còn nữa không?
Theo quy
luật tuần hoàn của vũ trụ, theo chu kỳ của Đất Trời, một mùa xuân nữa lại về,
nhưng đã 38 lần trong đời người Việt quốc nội không hề có mùa xuân, bởi từ dạo
30 tháng 4 năm ấy, xuân là tang thương, là mất mác, là chia ly. Xuân về tết đến,
không phải chỉ người dân xứ Huế hiệp kỵ cho những người thân của họ đã bị thảm
sát cũng vào một mùa xuân gần 50 năm về trước mà hàng trăm ngàn gia đình ở miền
Nam cũng đều đớn đau, thương tưởng đến những người thân yêu của họ đã chết một
cách oan nghiệt trong những ngày xuân bi thương của năm 1975, hay đã chết một
cách mòn mõi thương đau trong các trại lao cải…
Còn chúng ta? Chúng ta đã có
bao giờ nhẫm tính là đã có bao nhiêu mùa xuân tha hương hương đến và đã đi
trong đời của chúng ta rồi? Và có bao giờ chúng ta nhắc nhở cho con cháu mình bởi
đâu, do ai và tại sao chúng ta lại có mặt ở nơi này để trở thành những người Mỹ
da vàng hay những người Âu, người Úc tóc đen mũi tẹt hay không.
Hãy làm việc
này, ít nhất là một lần vào mỗi độ xuân về, cũng trong tinh thần ôn cố tri tân,
để chúng ta mãi mãi không quên rằng chúng ta là người Việt đang phải sống đời
lưu vong vì những chuổi mùa xuân bi thương mà đảng và nhà nước cộng sản đã mang
lại cho dân tộc, và rằng đất nước của chúng ta đã có một thời là đất nước VẠN
XUÂN để liệu chúng ta sẽ có thể làm được gì hầu khôi phục lại mùa xuân yêu
thương và trường tồn cho dân tộc mình hay không?
Mong sẽ
không quên bao giờ…
Nguyễn
Thu Trâm
Cảm ơn chị Lang đã gởi
đến ACE những
tấm hình trong vòng tay
Nhân-ái.
TTKh.
From: HO Lang
Subject: Photo Trong vòng tay Nhân ái
Subject: Photo Trong vòng tay Nhân ái
Những
hình ảnh yêu quý chỉ có trong QLVNCH .
Không biết những người lính trong những tấm hình này giờ ở
đâu ?
Mong mọi điều bình an và may mắn đến với các anh.
ảnh: Nick Út.
NT5 NDLe
No comments:
Post a Comment