Lá Thư Úc Châu
Chúc Thân hữu Giáng Sinh 2012 đầy Ơn Phước Lành
Trang Thơ Nhạc Christmas 2012
1.
Nhạc:
Bài Thánh Ca Buồn
Nhạc: Nguyễn Vũ
Tiếng hát: Elvis Phương
"Bài Thánh Ca Buồn" được viết trong hai giờ đồng hồ, vào tháng 10/1972 và ngay lập tức được hãng đĩa Sơn Ca mua độc quyền, ca sĩ Thái Châu là người đầu tiên thể hiện.... Bài Thánh ca đó còn nhớ không em, Noel năm nào chúng mình có nhau, long lanh sao trời đẹp thêm môi, mắt. Áo trắng em bay tựa cánh thiên thần.... Giai điệu ngân vang đó đã khơi gợi biết bao điều.
Nhạc sĩ Nguyễn Vũ tên thật là Nguyễn Tuấn Khanh, sinh năm 1944 tại Hà Nội nhưng suốt thời niên thiếu ông sống ở Đà Lạt. Chú ruột dạy vĩ cầm, bạn của bố ông cũng là nhạc sĩ, vì thế từ nhỏ Nguyễn Vũ đã hát cho Ban thiếu nhi Đài Phát thanh Đà Lạt. Năm 12 tuổi, cậu bé Khanh nhận được phần thưởng giải nhất đơn ca thiếu nhi của đài là một cây đàn mandollin - như là một định mệnh - cậu bé Khanh đã gắn bó với âm nhạc suốt gần nửa thế kỷ và trởthành nhạc sĩ Nguyễn Vũ sau này. Năm 23 tuổi, nhạc sĩ Nguyễn Vũ đã có tác phẩmđầu tay tạo được tiếng vang: ca khúc Huyền Thoại Chiều Mưa rồi lần lượt là Lời Cuối Cho Em, Bài Thánh Ca Buồn, Nhìn Nhau Lần Cuối, Lời Cuối Cho Người Tình... thế nhưng người ta chỉ ấn tượng nơi ông với mỗi ca khúc Bài Thánh Ca Buồn.
Người Nhạc sĩ 61 tuổi này bồi hồi nhớ lại: "Thuở ấy tôi là một cậu bé 14 tuổi ngày ngày đi lễ ở nhà thờ Con Gà (TP Đà Lạt), sở dĩ tôi "chịu khó" đi lễ bởi vì phát hiện ra một cô gái rất xinh và ngoan đạo mỗi ngày vẫn ngang qua ngõ nhà tôi để đến nhà thờ. Trái tim vụng dại của thằng con trai mới lớn đập loạn nhịp trước bóng hình thiếu nữ tóc xõa vai mềm bềnh bồng trong gió cao nguyên.
Ngày lại qua ngày suốt hơn ba tháng trời tôi âm thầm, lầm lũi làm "cái đuôi" cô ấy, kẻ trước người sau đi về mỗi bận trên 3km đường đèo nhưng một lời bẻ đôi không dám thốt. "Lòng thành" của tôi chỉ được hưởng một "ân huệ" cỏn con: Tôi được biết cô ấy tên Th., lớn hơn tôi 2 tuổi... Thế rồi một buổi chiều gần lễ Giáng Sinh, tan lễ ra thì trời đổ mưa to, "đối tượng" của tôi nép vội vào một mái hiên trú mưa, tôi cũng... trú tạm bên cạnh, hai người chỉ cách nhau độ một gang tay. Hòa lẫn trong tiếng mưa là giai điệu quen thuộc của bản Thánh ca Đêm Thánh Vô Cùng (Silent night) vẳng ra từ ngôi nhà gần đấy: Đêm Thánh Vô Cùng, giây phút tưng bừng, đất với trời, se chữ đồng, đêm nay Chúa con thần thánh tôn thờ....Th. đưa tay hứng lấy những giọt nước mưa và khẽ hát theo.
Tôi lặng người. Giọng hát Th. sao mà buồn da diết. Tự dưng tôi cảm thấy hết... sợ quê, khẽ đưa tay vuốt nhẹ lên... những hạt mưa bụi li ti bám bên ngoài chiếc áo ấm của Th., bất chợt Th. quay sang tôi nhoẻn miệng cười: "Cảm ơn nghen!". Mưa tạnh, "người trong mộng"đã khuất dạng tự bao giờ mà thằng con trai 14 tuổi vẫn còn đứng ngẩn ngơ như"một nửa hồn tôi mất".
Ba ngày sau gia đình tôi chuyển vào Sài Gòn sinh sống, thế là hết. Tâm trạng tôi lúc đó y như người vừa đánh mất một vật quí giá. Từ đó mỗi khi chợt nghe bài Thánh ca Đêm Thánh Vô Cùng lòng tôi lại tái tê với ánh mắt, nụ cười hồn nhiên, thánh thiện tựa thiên thần của "ngườiấy"
Ôm hình bóng ấy cho đến mãi 14 năm sau, tình cờ nghe lại Đêm Thánh Vô Cùng từ chiếc máy đĩa bỗng dưng cảm xúc từ một mối tình thánh thiện, hồn nhiên như trẻ thơ - tưởng như đã vùi sâu dưới lớp bụi thời gian - chợt ùa về trong ký ức, thôi thúc tôi"
Và Bài Thánh Ca Buồn đã được viết trong hai giờ đồng hồ vào tháng 10 mùa Trung thu năm 1972 và ngay lập tức được hãngđĩa Sơn Ca mua độc quyền, ca sĩ Thái Châu là người đầu tiên thể hiện. Các ca sĩhát thành công ca khúc này còn có Khánh Ly, Elvis Phương và Quang Minh. Khi Bài Thánh Ca Buồn trở nên phổ biến khắp Sài Gòn, đã đôi lần tôi quay về Đà Lạt mong tìm gặp "người xưa" nhưng nàng đã biền biệt nơi nào.
(Source: http://www.vn.net/article.php/20061223212154649)
2.
Đọc: Chuyện Văn học
Đọc: Chuyện Văn học
- Hoàng Cát: Cây Táo Ông Lành
- Phùng Quán: Xông đất nhà thơ Tố Hữu
- Thụy Khuê: Võ ThịHảo - Huyền ảo, độc tài và tội ác
- Trần Mộng Tú: Mùa Đông và CHÚA
Tình thân,
Kính.
NNS
................................................................................................................................1.
Chuyện Văn học:
(i) Hoàng Cát
Cây Táo Ông Lành
NguyenTrongTao: Hoàng Cát nổi tiếng bởi truyện ngắn "Cây táo ông Lành" đăng trên báo Văn Nghệ năm 1973. Nổi tiếng vì "bị đánh". Một cái truyện hiền lành viết về tình cảm tốt đẹp ông Lành dành cho trẻ con, đã bị giới "phê bình quan phương" suy diễn nâng thành quan điểm chống lại ChuNghiaXaHoi. Thời đó người ta còn bảo nhân vật ông Lành là ám chỉ Tố Hữu, vì Tố Hữu thường gọi là anh Lành và đầu nhà có trồng cây táo - "Cành táođầu hè rung rinh quả ngọt", "Xuân về táo rụng nhớ đàn em"... Nhưng sau này Hoàng Cát kể chuyện gặp Tố Hữu thì Tố Hữu nói tớ có biết gì đâu. Vì vậy nên khi làm cái Blog cho Hoàng Cát, ghi chú về tác giả dưới ảnh Avatare, tôi liền ghi dòng này: Hoàng Cát, gần cây táo ông Lành.
Kính.
NNS
................................................................................................................................1.
Chuyện Văn học:
(i) Hoàng Cát
Cây Táo Ông Lành
NguyenTrongTao: Hoàng Cát nổi tiếng bởi truyện ngắn "Cây táo ông Lành" đăng trên báo Văn Nghệ năm 1973. Nổi tiếng vì "bị đánh". Một cái truyện hiền lành viết về tình cảm tốt đẹp ông Lành dành cho trẻ con, đã bị giới "phê bình quan phương" suy diễn nâng thành quan điểm chống lại ChuNghiaXaHoi. Thời đó người ta còn bảo nhân vật ông Lành là ám chỉ Tố Hữu, vì Tố Hữu thường gọi là anh Lành và đầu nhà có trồng cây táo - "Cành táođầu hè rung rinh quả ngọt", "Xuân về táo rụng nhớ đàn em"... Nhưng sau này Hoàng Cát kể chuyện gặp Tố Hữu thì Tố Hữu nói tớ có biết gì đâu. Vì vậy nên khi làm cái Blog cho Hoàng Cát, ghi chú về tác giả dưới ảnh Avatare, tôi liền ghi dòng này: Hoàng Cát, gần cây táo ông Lành.
Mới biết sự suy diễn của giới "phê bình quan phương" vô cùng nguy hiểm, làm khổ Hoàng Cát bao năm "mang án không án", không được đăng cả tên mình dưới những bài viết. Để nhớ lại thời kỳkinh hãi đó, mời các bạn đọc lại truyện ngắn này cùng với lời "qui tội" của Tạp chí CỘNG SẢN thời đó.
TapChiCongSan: "... Một truyện ngắn về thiếu nhi đăng trên tuần báo Văn nghệ trong thời gian qua thuộc loại nấm độc nguy hiểm. Với lối viết kiểu "biểu tượng hai mặt", truyện này gieo rắc hoài nghi trong quần chúng đối với sự lãnh đạo của Đảng ta, gieo rắc tư tưởng chống lại đường lối cách mạng, chống lại chế độ xã hội chủnghĩa và nền chuyên chính vô sản của chúng ta. Miêu tả cuộc sống heo hút, tâm trạng u buồn của một ông già, người vợ chết vì bom, người con trai độc nhất "vô bộ đội đợt đầu tiên kể từ sau khi có lệnh hoà bình", truyện này không những bộc lộ quan điểm sai lầm của chủ nghĩa nhân đạo tư sản trong vấn đềchiến tranh, mà còn có tác dụng như một lời kêu gọi phản đối chiến tranh cách mạng, có hại cho sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước của nhân dân ta. Trong điều kiện chuyên chính vô sản, cuộc đấu tranh giữa hai con đường ở miền Bắc tiếp tục diễn ra gay go , phức tạp, tác giảtruyện ngắn này đưa ra hình ảnh cái đầu lâu khủng khiếp và nói về việc " từbỏ con đường này đi theo con đường khác" là có dụng ý gì? Phải chăng đây là sự phản ứng giai cấp trước một số biện pháp như kiểm tra hành chính , thu lại ruộng đất bị lấn chiếm , chống bọn ăn cắp tài sản xã hội chủ nghĩa và bọn làm ăn trái phép, bọn đầu cơ, móc ngoặc, vv...mà nhà nước dân chủ nhân dân đã áp dụng để bảo đảm thắng lợi của chủ nghĩa xã hội trong việc giải quyết vấn đề"ai thắng ai" ở miền Bắc? Cùng với lối viết bóng gió, xuyên tạc "nhà mới mà đã dột vì chuột bọ", tác giả đe doạ "bỏ" conđường mà tác giả cho là "con đường tắt" để đi con đường khác! Đó là một sự thách thức chế độ ta. Chuyện đã không chân thật, chủ đề lại lấp lửng, chi tiết lại đáng ngờ, gieo rắc những quan điểm, tư tưởng sai trái, đây rõ ràng là một truyện xấu và có hại. Vì tính chất độc hại của nó, truyện ngắn này đã bị đông đảo bạn đọc kịch liệt phản đối..."
*********
Tên thật ông là gì, nhiều người không biết. Đã từ lâu, người ta vẫn quen gọi ông là ông Lành. Vì tính ông hiền lành và rất yêu lũ trẻtrong làng. Lâu dần, nó thành ra tên của ông.
Vườn nhà ông khá rộng, có nhiều cây ăn quả như chuối, mãng cầu, vú sữa, táo... Ông Lành thú nhất là cây táo lai. Nó đứng ở góc vườn, trùm cái tán khum khum lên một vạt đất chừng dăm tấm chiếu. Cạnh cây táo quý ấy, ôngđã cất lên một căn nhà ba gian, hai chái; chung quanh tường xây gạch, mái còn tạm lợp tranh. Ấy là căn nhà ông làm chuẩn bị cho cậu con trai duy nhất của ông lấy vợ, ở riêng. Nhưng nhà vừa làm xong thì thằng Sửu lại xung phong vô bộ độiđợt đầu tiên, kể từ sau khi có lệnh hoà bình của Chánh phủ cách mạng lâm thời.Thế là ngôi nhà đành tạm để không. Và nó được mang mãi cái tên "Nhà mới". Mặc dù cho đến nay, mái tranh của nó đã có đôi chỗ dột vì chuột bọ,vì thiếu hơi người ở.
Cây táo quý đứng ngay góc sân ngôi nhà mới ấy. Cây táo càngđẹp thêm, và ngôi nhà cũng đẹp thêm.
Mé dậu vườn là con đường ống chạy xuyên qua làng. Sáng sáng, lũ trẻ học trò lớp Một đi tắt qua đấy để đến trường. Bao giờ chúng cũngđi thật sớm, tíu tít như một đàn chim, vồ lượm những quả táo rụng.
Vốn là một ông già yêu trẻ, ông Lành lấy thế làm niềm vui. Nhiều khi đứng trong cửa sổ nhìn ra, ông thấy lũ trẻ lấy gạch ngói, đất đá hoặc que khăng ném cho táo rụng xuống để lượm được nhiều. Ông cũng chẳng la mắng chúng nó làm chi. Ông hiểu, lũ trẻ thích ăn táo lắm. Chỉ những đứa trẻ nào nghịch quá, ném vung đất đá vào sân hay làm rơi hỏng mái tranh ngôi nhà mới của ông, thì ông mới nhẹ nhàng bảo chúng đừng ném nữa. Lũ trẻ cũng biết nể ông, ông chỉcần nhắc một lần là chúng ngoan ngoãn rủ nhau kéo đi. Chúng vừa đi, vừa ăn táo, và "nhồm nhoàm" trêu chọc lẫn nhau. Rồi chúng đuổi nhau chạy. Rồi chúng cười. Rồi chúng hát nghêu ngao...
Những lúc thảnh thơi, ông Lành nhìn lũ trẻ hò nhau nhặt táo rụng mà càng thêm ao ước một ngày gần đây thằng Sửu về cưới vợ; rồi ông sẽ có những đứa cháu cũng líu lo như thế. Ước mơ ấy luôn cho ông niềm vui ngầm trong bụng.
Bà vợ ông đã chết vì bom toạ độ Mỹ từ mùa gặt năm 1967,đúng vào kỳ cây táo sai quả nhất. Thằng Sửu của ông cũng đã đi thoát ly, vào quân chủ lực. Chỉ còn lại mình ông. Nỗi thèm khát có đứa cháu bên cạnh cho ấm áp tuổi già, càng lúc càng âm ỉ trong lòng ông Lành. Những đêm sương nặng hạt, nằm không ngủ được, lắng nghe tiếng táo rụng lộp bộp ngoài vườn lẫn với tiếng sương rơi, ông Lành chỉ mong chóng sáng để được thấy lũ học trò đi qua nhặt táo...
Nhưng một buổi sáng ông đang ngồi hí húi vót lạt mây đểbuộc cái nạng, chống cho cây táo đỡ ngả xuống vườn vì nặng quá, thì bỗng "bịch rộp!" - một hòn đất rơi trúng đầu ông, tung toé cả lên vai, lên gáy! May mà hòn đất bở, không to lắm, chứ không thì có lẽ ông đã té xỉu xuống rồi. Thếmà cũng choáng váng mất một lúc. Vừa ngẩng lên, ông Lành thấy thằng Thìn đang trân trân nhìn ông, vẻ hối hận lắm. Nó lắp bắp:
-Cháu...cháu lỡ!... Ông tha...
Đang cơn bực mình, ông Lành ném cây rựa xuống sân đánh "phựt" , đứng phắt lên:
-Ông, ông cái con khỉ!...
Hoảng quá, thằng Thìn co giò bỏ chạy.
Cũng vừa lúc ấy, nó gặp lũ bạn ngoài ngã ba cây bông điệp. Nó cản các bạn lại, làm ra vẻ bí mật:
-Nè, chúng bay à! Tao đi qua cây táo ông Lành vừa nãy, mà sợ quá, phải chạy lui đó nghe!
-Sao?
-Gì thế? Cái gì thế?
Lũ bạn nhao nhao lên hỏi, đầy vẻ băn khoăn và sợ hãi.
Thằng Thìn, cậu bé lên tám, mắt tròn ấy, bấy giờ mới một tay kéo quần, một tay vừa ôm vở, vừa vung lên làm hiệu và nói như thật:
-Tao đi qua cây táo ông Lành, tưởng như mọi khi, tao vô lượm trái rụng. Bất chợt có tiếng "ư hừm!"rõ to! Mà giọng nó ồ ồ kỳlắm! Tao tưởng là ông Lành đùa. Nào ngờ, nhìn khắp mà chẳng có ai hết. Tao lại nghe "ư hừm" thiệt to và kéo dài lượt nữa; chừng như có người nào ngồi trên cây táo. Tao mới nhìn lên, thì eo ôi! Một cái sọ dừa đen ngòm trên ấy nó trêu tao! Tao sợ hết hồn, co cẳng vùng chạy một mạch tới đây. Hú vía!
Thìn kể say sưa và hồi hộp thật. Các bạn nó ngơ ngác nhìn nhau, giọng se sẽ thì thào; có đứa tái mét cả mặt:
-Vậy làm sao mà tới lớp bây giờ?
Thìn liền láu lỉnh:
-Đây có phải là đường chính của chúng mình tới Trường đâu.Đường chính là đường to, vòng quanh làng chứ. Đường qua vườn ông Lành là đường tắt cho nhanh!
Lâu nay lũ trẻ quen đi đường tắt này, vừa nhanh lại vừađược lượm táo. Bây giờ, nghe Thìn nói vậy, cả lũ réo lên:
-Thôi! Bỏ đường cây táo ông Lành!
-Bỏ thôi!
Vậy là lũ trẻ quay ùa ra đường cái, vòng quanh làng.
Riêng có thằng Tỵ và thằng Ngọ chưa tin hẳn lời thằng Thìn, bèn rủ nhau bò tới rình xem. Chỉ một lát sau, hai đứa vội vàng co giò chạy trởlại; càng làm cho lũ trẻ tin chuyện cái sọ dừa đen trên cây táo là có thật.
Từ đó, đường qua vườn ông Lành vắng hẳn.
Những quả táo chín, rơi vàng cả một góc sân ngôi nhà mới, rơi cả ra đường...
Ông Lành nhìn táo rụng vàng ối, mà chẳng có trẻ nhặt, lòng dạ không đành.
Đêm nằm nghe tiếng táo rụng với tiếng sương rơi lộp bộp ngoài vườn, ông thắc thỏm đoán ngày mai thế nào lũ trẻ cũng đến lượm, hò reo, hí hửng với những túi táo đầy. Nhưng đã hết năm ngày, năm đêm rồi, mà vẫn không nghe tiếng chân lũ trẻ đi qua nhà ông để đến trường nữa, chứ đừng nói là chúng vào lượm táo
Ông Lành ân hận. Hay là thằng nhóc ấy đã nói với lũ bạn nó thế nào, để tất cả lũ chúng giận ông? Mà ông đã làm gì nó kia chứ! Một cục đất rơi thẳng vào đầu, chứ có phải chuyện chơi đâu.
Chưa biết căn nguyên vì sao lũ học trò lớp Một trong làng lại không đi qua nhặt táo rụng nữa, nhưng ông Lành cũng mang cái rổ ra lượm tất cả táo trên sân, trên vườn, rửa sạch sẽ. Thế nào rồi cũng có lúc chúng nhớ mà đi qua chứ.
Ông vừa làm xong việc đó được một lúc , thì chợt thấy thằng Mùi hớt hơ hớt hải cắp sách chạy qua. Nhưng nó không đoái hoài đến cây táo. Ông Lành liền gọi giật nó lại:
-Nè con!
Thằng Mùi ngoái đầu, "dạ" một tiếng rõ to, rồiđịnh quay đi chạy thẳng. Nhưng ông Lành đã kịp bưng rổ táo chín múp chạy tới, giữ nó lại. Thằng Mùi tròn mắt, không dám lấy:
-Táo có ma đầu-lâu-đen, cháu không ăn đâu ông ạ!
Ông Lành ngạc nhiên:
-Ai bảo mày thế?
-Thằng Thìn! Hôm kia nó đi sớm, vào lượm táo một mình, bịma đầu-lâu-đen doạ "ưm hừm" đấy!
-Ở đâu? - Ông Lành càng ngạc nhiên.
-Nó bảo có đầu-lâu-đen trên cây táo của ông! - Thằng Mùi vừa thở vừa nói , rồi quay mặt đi chỗ khác, đưa tay chỉ lên cây táo.
Ông Lành mới vỡ lẽ! Ông chửi yêu thằng Mùi, chửi yêu cả lũbạn nó:
-Cha mẹ chúng bay nghe! chỉ bày trò dại mà doạ nhau thôi. Tổ kiến đen đấy cháu ạ! Ông nuôi tổ kiến trên ấy cho nó ăn sâu đi, để táo khỏi bị sâu ăn chứ.
Rồi ông Lành ngồi vậy, ôm hẳn thằng Mùi đứng vào giữa haiđùi ông:
-Cháu đến lớp nói với các bạn là không có ma nào hết nghe!Đây nè, để ông đi chọc tổ kiến cho cháu xem.
Rồi ông Lành cười thoả thuê, dắt tay thằng Mùi đến bên cây táo, lấy sào nứa đâm vào tổ kiến. Lập tức đàn kiến bò ra, bu đen cả đầu sào. Thằng Mùi vỗ tay reo lên, cười khanh khách. Rồi nó quay vội sang, nói với ông Lành:
-Bữa nay vì cháu ngủ quên, sợ đến trễ, cô giáo la, nên mới liều chạy tắt qua đường này đó ông ạ! Bây giờ cháu phải đến lớp kẻo trễ, nghe ông!
- Ờ! Mà cháu phải mang chỗ táo ông nhặt đây cho cả lớp ăn với chứ.
Trước đây, cô giáo Hà đến xin ông Lành cho mượn căn nhà mớiđể làm trường cho học sinh lớp Một. Suy đi tính lại , rồi ông không cho. Lắm lúc, ông cũng thấy có cái gì đó không đành. Hoá ra, như thế mình không nghĩ đến tình làng nước nữa sao? Nhưng mà, ái chà chà! Cái lũ trẻ ấy cũng nghịch quá lắm! Nếu để cho chúng nó học ở đấy, rồi đến tường nhà cũng lở lói hoặc bị bôi vẽ bẩn thỉu những gà mẹ, gà con, lợn nái , mèo hoa lên thôi, Và tất nhiên là cây táo quý hoá của ông cũng sẽ trụi thụi lụi cả quả lẫn cành mất.
Nhưng chỉ mấy ngày vắng bặt tiếng trẻ hò reo lượm táo, vắng bặt tiếng rậm rịch bước chân của lũ chúng qua trước nhà ông để đến lớp học , ông Lành mới thấy hết thế nào là hạnh phúc của một người ông. Ông nhớ lũ trẻhơn hớn kia quá. Và ông càng đâm ra nghĩ ngợi , nhớ lây sang thắng Sửu nhà ông , với niềm hy vọng một ngày gần đây ông sẽ có cháu nội . Rồi chúng cũng đi học lớp Một, cũng nhặt táo rụng trên vườn kia...
Thế là ông Lành quyết định đến lớp gặp cô giáo Hà. Và tất nhiên, ông sẽ được gặp tất cả lũ trẻ nữa. Thứ nhất, ông sẽ nói để cô giáo biết chuyện thằng Thìn bịa ra trên cây táo quý của ông có cái đầu lâu đen, làm cho lũtrẻ khiếp vía, sợ lây cả ông. Thứ hai, ông sẽ bảo cô giáo chuyển cho lũ nhỏ vềngôi nhà mới của ông mà học. Chả là ông đã nghe phong thanh, đâu cái chỗ lớp học hiện giờ chật chội quá, cô giáo Hà định dời lớp sang một làng khác.
Ông Lành đến lớp học của lũ trẻ lớp Một.
Vừa thấy ông từ xa, lũ trẻ đã cầm mỗi đứa một vài quả táo trên tay, chạy ùa ra hò reo đón ông.
Riêng có thằng Thìn vội ngồi sụp xuống dưới chân bàn , mồmđang ngậm một quả táo, mỉm cười tinh nghịch. Nó đỏ dừ hai tai...
(Mùa táo chín 1973)
(Source: Blog NguyenTrongTao)
(ii) Phùng Quán
Xông Đất Nhà Thơ Tố Hữu
(Nhân chuyện Cây Táo Ông Lành, đọc bài Phùng Quán nói về ông cậu Tố Hữu)
(ii) Phùng Quán
Xông Đất Nhà Thơ Tố Hữu
(Nhân chuyện Cây Táo Ông Lành, đọc bài Phùng Quán nói về ông cậu Tố Hữu)
Sáng mùng một Tết năm Canh Ngọ. Như thường lệ, vợ chồng chúng tôi xuất hành vào 9 giờ sáng, đến chúc Tết các gia đình họ hàng nội ngoại. Năm đó chúng tôi quyết định xông đất đầu tiên gia đình nhà thơ Tố Hữu.
Trong mối liên hệ gia tộc, tôi gọi nhà thơ bằng cậu. Theo phong tục miền Bắc, tôi phải gọi bác, vì nhà thơ là anh em cô cậu ruột với mẹtôi. Cậu là con út trong gia đình, hàng cháu chúng tôi vẩn quen gọi cậu út. Mọi năm, trên đường đi chúc Tết, tôi thường vẫn đi xe đạp ngang qua trước cổng biệt thự của nhà thơ trên đường Phan Đình Phùng. Cảnh tượng tưng bừng, tấp nập trước cổng biệt thự tôi không tả nổi; chỉ đoán chắc cả Hà Nội cũng chỉ năm bảy nhà sánh kịp mà thôi. ô tô con đủ hình dáng, màu sắc, nhãn hiệu, choáng lộn như vừa xuất xưởng, đỗ một hàng dài san sát. Những bó hoa tươi thật lớn, thật rực rỡ,được đưa từ trên xe xuống… Công an mặc lễ phục đi lại dọc vỉa hè. Lính cảnh vệoai nghiêm bồng súng đứng gác bên cổng sắt đồ sộ. Người ra người vào nườm nượp, mặc toàn đồ lớn, nét mặt hồng hào rạng rỡ, đầy vẻ trịnh trọng có pha chút khúm núm. Ngang qua đó, không hiểu sao tôi cứ có cảm giác sờ sợ, đầu không khiến mà chân cứ tự động đạp xe dạt sang bên kia đường.
Nhưng Tết này, trước cổng biệt thự của nhà thơ quang cảnh vắng teo. Không có chiếc ô tô con nào, không công an cũng chẳng lính cảnh vệ.Cái cổng sắt mọi ngày nom như hẹp hẳn lại, hai cánh cửa khép hờ, ai vào cứ việcđẩy cửa mà vào y như thể dân thường. Hai vợ chồng chúng tôi xuống xe đạp đửng tần ngần một lúc trước cổng sắt.
"Dấu xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương…".
Hai câu thơ của Bà Huyện Thanh Quan bỗng đột ngột hiện ra trong trí nhớ của tôi với toàn bộ vẻ đẹp u trầm và sâu sắc đến kinh người của nó.
"Tết này là đúng ba mươi hai cái Tết anh không đến chúc Tết cậu" - tôi nói với vợ, tay khẽ khàng đẩy cánh cổng sắt. Chúng tôi dắt xe qua khoảng sân lốm đốm những mảnh rêu, dựa xe vào tường dãy nhà ngang dài tít tắp, cuối dãy nhà là gara ô tô. Dãy nhà ngang này, mới năm ngoái năm kia, còn người ra người vào tấp nập, vang vang tiếng chuông điện thoại, tiếng "Alô, tôi nghe đây", tiếng máy chữ lách cách liên hồi; trong gara ngựmột chiếc ôtô đen choáng lộn, nhìn thắng ra cổng với cặp mắt đèn pha sáng quắc, uy nghi. Bây giờ các cửa phòng đều đóng kín, trong gara đậu một chiếc xe con nhỏ thó, màu trắng đục.
Tôi bâng khuâng đưa mắt nhìn cây táo già và cây hồng tơ đứng sát bên rào sắt trước tiền sảnh biệt thự. Đây là hai cái cây nổi tiếng đã đi vào thơ."Cành táo đầu hè rung rinh quả ngọt. Quả son nhún nhẩy đèn lồng cành tơ".
Nhìn cây tôi bỗng chạnh nhớ đến anh lính trẻ thương binh Hoàng Cát viết văn. Chỉ vì cây táo này mà có lần anh phải mang họa vào thân. Anh viết truyện thiếu nhi "Cây Táo Ông Lành" và đã bị trừng phạt vì có dụng ý nói xấu cán bộ lãnh đạo cao cấp. Giá hồi đó anh đổi thành "Cây nhót hay cây ổi ông Lành" chắc đã không phải khổ. Tôi nghĩ vậy và thầm tiếc cho anh. Chúng tôi bước vào phòng khách rộng lớn, thấy nhà thơ đang tiếp mấy vịkhách ăn mặc xuềnh xoàng như chúng tôi, trong đó có một phụ nữ đứng tuổi, gương mặt thanh thoát, sắc sảo, cởi mở. Sau đó tôi mới được biết người phụ nữ này là chị Nẻ, vợ Võ Chí Công.
Nhìn cây tôi bỗng chạnh nhớ đến anh lính trẻ thương binh Hoàng Cát viết văn. Chỉ vì cây táo này mà có lần anh phải mang họa vào thân. Anh viết truyện thiếu nhi "Cây Táo Ông Lành" và đã bị trừng phạt vì có dụng ý nói xấu cán bộ lãnh đạo cao cấp. Giá hồi đó anh đổi thành "Cây nhót hay cây ổi ông Lành" chắc đã không phải khổ. Tôi nghĩ vậy và thầm tiếc cho anh. Chúng tôi bước vào phòng khách rộng lớn, thấy nhà thơ đang tiếp mấy vịkhách ăn mặc xuềnh xoàng như chúng tôi, trong đó có một phụ nữ đứng tuổi, gương mặt thanh thoát, sắc sảo, cởi mở. Sau đó tôi mới được biết người phụ nữ này là chị Nẻ, vợ Võ Chí Công.
"Thưa cậu, năm mới vợ chồng cháu xin đến chúc Tết, mừng tuổi cậu mợ và các anh chị…". Sau ba mươi hai năm không gặp lại, nhà thơvẫn nhận ra tôi. "Vợ chồng Phùng Quán" nhà thơ nói như muốn giới thiệu luôn với mấy người khách – "Sao lâu nay cháu không đến cậu?" Giọng nhà thơ ân cần, có pha chút trách cứ của bậc bề trên.
Tôi thoáng một giây bối rối, nhưng nhờ mấy chén rượu xuân trước lúc xuất kích, nên đầu óc tôi trở nên mẫn tiệp. "Thưa cậu" -tôi chắp tay cung kính, ý thức sâu sắc rằng tôi không chì nói riêng với nhà thơmà với cả khách khứa đang có mặt - "Cháu biết như vậy là rất có lỗi với cậu, nhưng mong cậu hiểu cho. Trước đây, lúc cậu còn là uỷ viên Bộ Chính trị,Phó Thủ tướng thứ nhất, cháu chỉ đến với mục đích duy nhất là để thăm, chúc Tết cậu mợ, nhưng bạn hữu và những người quen biết cháu sẽ đinh ninh Phùng Quán đếnđể cầu cạnh, xin xỏ Tố Hữu điều gì, và Tố Hữu gọi Phùng Quán đến để sai bảo điều gì. Tấm lòng thật của cháu dù biện minh đến ngàn lần cũng chẳng ai tin. Miệng lười thế gian dữ dằn lắm cậu ạ. "Ai biết đâu ma ăn cỗ!". Bây giờ mọi việc đã xong rồi, vợ chồng cháu lại được đến chúc Tết cậu mợ…".
Nhà thơ nhìn tôi với ánh mắt vừa thương hại vừa cười cợt. "Thôi, được rồi, hai vợ chồng ngồi xuống đây - nhà thơ chỉ hai cái ghếtrống sát bên cạnh. Tôi là anh của mẹ Phùng Quán" - nhà thơ giới thiệu tôi với mấy người khách, trong đó có anh Hồ Ngọc Đại, nhà giáo dục cách tân nổi tiếng. Chúng tôi niềm nở bắt tay nhau. "Cậu có đọc bàỉ thơ "Đêm Nghi Tàm đọcĐỗ Phủ cho vợ nghe" - nhà thơ nói - Bài thơ được lắm". Tôi thực sự ngạc nhiên trước lời khen về bài thơ đó. Đến chúc Tết nhà thơ tôi ngại nhất là chuyện này. Tôi thầm hy vọng nhà thơ chưa đọc.
"Em ơi nếu Tử Mỹ - Nhà ở rộng mười gian - Rào sắt với cổng son - Thềm cao đá hoa lá - Chắc ông không thể làm - Mưa thu mái nhà tốc…".
Những câu thơ như thế có thể làm nhà thơ nghĩ rằng có sự ám chỉ cá nhân… Lời khen bất ngờ này toát ra vẻ đẹp trong trắng của tâm hồn nhà thơ:với thơ bao giờ cũng hoàn toàn vô tư.
Nhân nhắc đến chuyện thơ, chị Nẻ bỗng ngừng câu chuyện với người khách ngồi cạnh, quay sang hỏi nhà thơ với giọng thẳng thắn bộc trực: "Sao lâu nay anh ít làm thơ thế? Anh đừng để tâm gì nhiều đến những chuyệnđã qua. Tôi nói thật, mất đi mười ông Phó Thủ tướng tôi cũng chắng tiếc bằng mất một nhà thơ như anh. Tuổi thanh niên tôi lao vào hoạt động cách mạng một phần cũng do đọc thơ anh. Ngày đó, bao nhiêu bài thơ trong tập Từ ấy tôi thuộc làu làu. Hồi bí mật, bọn mật thám bắt tôi, chúng nó tra tấn treo ngược tôi lên, bắt tôi khai báo. Tôi trả lời chúng bằng cách đọc thơ anh, đọc bài này tiếp bài khác, đọc suốt đêm. Sáng hôm sau chúng nó sợ phải cởi trói cho tôi… Không phải chúng nó sợ tôi đâu, mà sợ thơ anh đấy…".
Cũng là người làm thơ, nghe người phụ nữ kiên cường này nói về sức mạnh lớn lao của thơ, tôi thầm ao ước cả đời mình chỉ nhận được một phần mười của lời khen tặng đó - "Mọi năm, Tết nào anh cũng có thơ Xuân - chịNẻ lại hỏi tiếp - Sao vài năm nay anh không có thơ Xuân?". "Tết này tôi cũng có làm một bài, ngắn thôi, thơ tứ tuyệt…". Vợ tôi nói: "Xin cậu đọc cho chúng cháu nghe với". Nhà thơ cười cười, đọc bài thơ với giọng Huế đặc sệt: "Đầu đề bài thơ là "Anh bộ đội mua đồng hồ". Xin lưu ý là "anh bộ đội" nghe: Có anh bộ đội mua đồng hồ - Thiệt giảkhông rành anh cứ lo - Đành hỏi cô nàng, cô tủm tỉm; từ "tủm tỉm" của tôi là đắt lắm đấy. "Giả mà như thiệt khó chi mô!". Nhà thơ đọc lại lần thứ hai, nhấn mạnh từng từ một.
Khách khứa nghe cũng đều cười tủm tỉm, nhưng không ai bình luận gì hết. Tôi thì đoán họ đều như bị hẫng. Vì giọng thơ khác lạ biết bao so với giọng thơ quen thuộc của nhà thơ trước đây. Chào 61 đỉnh cao muôn trượng, câu thơ sáng khoái của nhà thơ trong "Bài ca Xuân 61" được nhiều người hệt vào những câu thơ sấm ngữ. Riêng tôi, bài thơ này làm tôi nghĩ ngợi phân vân: Có lẽ nào một nhà chính trị, một nhà thơ từng trải, thông minh nhưcậu mà mãi cho đến lúc bước vào tuổi bảy mươi mới bắt đầu ngấm cái đòn-giả-thật?Hay cậu đã ngấm từ lâu nhưng phải đến hôm nay, khi không còn hệ lụy gì nữa, mới có dịp bộc bạch với mọi người? "Các cháu ăn mứt đi - nhà thơ quay sang nói với vợ chồng tôi". "- Thưa cậu cháu không quen ăn ngọt. Cậu có rượu chi ngon cho cháu uống, cháu xin uống ngay". "Rượu à? Cạnh cái chân lò sưởỉ có chai rượu gì đó người ta biếu, cháu xem có uống được không?". "A, Rượu Nga? Ararat". Tôi vặn nút rót một ly đầy và uống cạn - Rượu ngon tuyệt cậu ạ. Thế mà vừa rồi nghe đâu Goocbachôp lại ra lệnh cấm rượu, Goocbachốp cùng tuổi với cháu, tuổi Tân Mùi". "Cấm rượu, nhà thơ dằn giọng - Do đó mới làm thiệt mất của đất nước một trăm mấy chục tỷ rúp". Gương mặt của nhà thơ đang vui vụt sa sầm, cặp mắt đang vui chợt lóe lên ánh tức giận trước một tổn thất quá lớn về của cải của một đất nước mà nhà thơ yêu mến từ thuở thiếu thời và đã từng viết nên những vần thơ xao xuyến lòng người. Nhà thơ nói tiếp: "Sự đúng đắn và lố bịch nhiều khi chỉ cách nhau một sợi tóc".
Sau khi khách khứa ra về, chỉ còn lại ba cậu cháu. Tôi đã uống đến ly Ararat thứ năm. Rượu bắt đầu ngấm làm tôi trở nên mạnh dạn. Tôi hỏi nhà thơ câu hỏi tôi muốn hỏi từ lâu: "Thưa cậu, cháu rất muốn biết, bây giờ thực sự cậu mong muốn điều gì?". Một thoáng trầm ngâm, nhà thơ nói: "Cậu ao ước còn đủ sức khỏe, đạp một chiếc xe đạp về trong quê mình, sống lại kỷ niệm của thời ấu thơ, thời hoạt động sục sôi của tuổi thanh niên, rồi đặt những bài vè như Mẹ Suốt, Ba mươi năm đời ta có Đảng, Nước non ngàn dặm… tìmđến nơi có đồng bào, bà con tụ tập, đọc lên cho bà con nghe… Cậu mong muốn được làm người hát rong của nhân dân".
Nhà thơ ngồi yên lặng một lúc lâu. ánh mắt nhà thơ trở nên tĩnh lặng thâm trầm như mặt vực nước của một dòng suối lớn lắng lại sau khi chảy qua biết bao ghềnh thác dữ dội của cuộc sống và cách mạng. "Nhưng cậu còn bận vào việc phải hoàn thành công tác Đảng giao. Vả lại sức khỏe cũng kémđi nhiều, nên cái điều ao ước đó e khó lòng thực hiện được…"
Nghe nhà thơ tâm sự mắt tôi tự dưng mờ lệ, lòng quặn thắt cảm thương người cậu của tôi sang Xuân này, bước vào tuổi bảy mươi đã trở lại nguyên vẹn một nhà thơ, một NHÀ THƠ viết hoa.
Có lúc nhà thơ đã đạt đến chức Tam Công trong bộ máy quyền lực của đất nước, nhưng cuối đời lại chỉ mong ước được làm một nghệ sĩ hát rong của nhân dân mà không hy vọng thực hiện được. Trong khoảnh khắc đó, lần đầu tiên tôi lĩnh hội được hết vẻ cao sang của Thi ca đích thực.
Vợ chồng tôi xin phép cậu ra về để còn đi chúc Tết nhiều giađình khác. Nhà thơ đứng lên tiễn chúng tôi và dặn: "Khi nào có thì giờ hai vợ chồng đến chơi với cậu. Cậu thường rảnh vào buổi chiều". Nhà thơ khoác vai tôi một bên, vợ tôi một bên lững thững đi ra cổng. Bước xuống khỏi những bậc tam cấp nhà thơ nói với vợ tôi: "Thằng Quán nó dại…". Khi ra gần đến cổng sắt, nhà thơ dừng lại, nói tiếp như vẫn không dứt dòng suy nghĩ của mình: "… mà cậu cũng dại…". Mấy ly rượu Ararát làm cái lưỡi tôi trở nên phóng túng, tôi bật cười to: "Thưa cậu, thì chính cậu đã viết điều đó thành thơ từ nửa thế kỷ trước: Ai nên khôn mà chẳng dại một đôi lần!"
(Xuân Tân Mùi, 1992)
(iii) Thụy Khuê
Võ Thị Hảo - Huyền ảo, độc tài và tội ác
Sau hơn ba mươi năm kết thúc chiến tranh, những đề tài vềchiến tranh dường như cũng biến mất trên văn đàn chính thống Việt Nam. Chúng đãđầu thai kiếp khác hoặc tìm cách trốn ra nước ngoài. Ngồi hong váy ướt, tập truyện mới nhất của Võ Thị Hảo hội đủ hai yếu tố: đầu thai kiếp khác mà vẫn phải chạy ra nước ngoài, tháng 7 năm 2012, tủ sách Thi Văn Hồng Lĩnh của Bùi Xuân Quang ởParis, xuất bản.
Võ Thị Hảo sinh năm 1956 tại Diễn Châu, Nghệ An, nổi tiếng trên văn đàn với các tập truyện ngắn Biển cứu rỗi, 1992, Chuông vọng cuối chiều, 1994, Người sót lại của rừng cười, truyện dài Giàn thiêu, 2003, vv...
Trong tác phẩm mới nhất, Võ Thị Hảo nhìn hội chứng chiến tranh, độc tài và tội ác như tác dụng nhân quả thể hiện qua những truyện ngắn huyền ảo. Cảm giác bị tấn công mãnh liệt bởi những mạnh vụn trái phá và những chân rết ung thư tội ác tàn phá nội tạng người đọc.
Người ta đã và sẽ còn bỏ nhiều thời giờ, ngân quỹ để nghiên cứu, viết sách, làm phim, phân tâm những lính Mỹ bị điên sau khi tham dự chiến tranh Việt Nam. Nhưng chưa ai nghĩ đến việc phân tâm lính Việt, người Việt, bởi dân tộc ta thuộc dạng "hơn người", hùng tính hơn người, chịu đựng hơn người, cần gì đến thứ khoa học phô trương, tốn tiền, phù phiếm, vô bổ.
Võ Thị Hảo chẳng phân tâm ai cả mà dùng phép phù thủy, cho chiến tranh, độc tài, hủ lậu và tham nhũng vào chung một rọ, xóc cho ngầu, phơi cho bốc hơi, toả khói, biến các chứng liệu hoá thân thành cây cỏ, đất trời, rắn rít, con ong, con nhện, đám mây, ngọn gió... Toàn bộ thiên nhiên trong không gian Võ Thị Hảo, sau nửa thế kỷ chiến tranh và độc tài, trở thành hậu thân của một thế giới, trước kia đã từng có người, đã từng là người. Những giá trị "vĩnh cửu" như tình yêu, tình người, nhân tính... đều đã bốc khói, bay đi, chỉ còn trơ lại đống sắt vỡ vụn của trái phá, sắc nhọn, đâm chém, vô luân và tàn ác.
Dưới tựa đề khá xếch-xy Ngồi hong váy ướt là một tập 17 truyện ngắn, với những bức tranh siêu thực hoang vu, ngập mùi tử khí, viết từ ngòi bút của một người đàn ông đã chết "chấm bút lông vào mạch máu đang chảy ở khuỷu tay mình viết lên những trang giấy trắng", về cái thế giới mà ông ta đã sống.
Trang đầu tiên là Bùa, một truyện xẩy ra ở Thành Cổ Sơn Tây, là miền đất tổ lâu đời nhất. Sơn Tây,chính là nước Văn Lang, kinh đô Hùng Vương, Trưng Vương, Phùng Hưng và Ngô Quyền. Người ta nghi người chết đã lầm Sơn Tây với Quảng Trị, hoặc Sơn Tây bị biến thành Quảng Trị. Hoặc đoán chừng người Sơn Tây bị lệnh "câm" trở thành ngườiQuảng Trị. Hoặc Sơn Tây sau khi "cháy chợ", bọn yêu quái bỗng "lớn phỗng lên", nhân dân Sơn Tây vỡ nợ, phá sản, trốn vào ma túy hoặc tự tử, biến thành nhân dân Quảng Trị, một thành cổ đang "thiu thiu ngủ" với những "oan hồn nửa thức nửa ngủ trên những đám mây trĩu sương tù đọng. Nước không chẩy và mây không bay". Một quán phở đêm, quy tụ đủ mọi hạng người đến gặm xương đáy nồi, thứ "xương bốc mả". Hàng phởbốc mả là trạm cuối của sông mê. Tại đây, người ta kể những chuyện rùng rợn, trong một thế giới người ma lẫn lộn. Một xã hội ăn xương bốc mả, ăn táo lê Trung Quốc ướp thuốc không thối, có người chết của quý chĩa thẳng lên trời, có con ma thiếu máu, chân quắp vào cột cây số 12, có người bán máu lấy tiền tiếp máu cho ma...
Bùa chỉ là khúc dạo đầu để đi vào những mạch sống, mà Mỵ Châu thả bước xuống trần mở vào lịch sử ngàn năm của những mạch sống khốc liệt ấy:
Pho tượng đá cụt đầu trong am MỵChâu một đêm chợt tỉnh sau bao nhiêu thế kỷ. Chiếc thân đi tìm lại đầu mình. MỵChâu nhớ lại những giây phút chót của cuộc đời, nhớ những mảnh lông ngỗng trắng tinh nàng rứt từ chiếc áo Trọng Thuỷ tặng, để dẫn đường cho chồng tìm mình trong cơn nguy biến, nhớ tiếng quân Triệu reo hò, nhớ tiếng vó ngựa Trọng Thuỷ"dựng ngược trên đầu hai cha con", nhớ tiếng thét rách gió của chàng, nhớ nhát kiếm cha già loáng trên gáy, đầu nàng rơi xuống, máu hoà với nước biển mặn chát. Đầu Mỵ Châu lưu lạc không ngừng, không bao giờ lắp lại được với thân. Mỵ Nương đi xuyên nhiều thế kỷ, lầm lũi, không đầu, lần từng trang sử, dừng chân trên am thờ nàng, nay đã trùng tu, nàng đã được xây nhà mới. Người ta dúi vào tay nàng cơ man của đút, lót tiền giả để mua tiền thật, mua sự bất tử. Cái giếng Trọng Thủy trầm mình, nay đã trùng tu thành lỗ huyệt láng xi măng cho tiện vét tiền du khách ném xuống. Thân nàng được phủ những chuỗi hạt nhựa, phủlụa là gấm vóc "bóng lộn và hăng hắc độc" dệt từ quê hương Trọng Thủy. Mỵ Châu choáng váng, tìm chốn nương thân nhưng vô ích. Nàng không còn chỗtrên quê hương mình. Trong đền An Dương Vương đã trùng tu quê kệch, một đám mặt mũi đẹp đẽ béo tốt đang yến tiệc, "miệng ngo ngoe những cái đầu rắn". Mỵ Nương thấy mạch sống thế kỷ XXI tàn tệ hơn thế kỷ của nàng, trên đất nước Văn Lang đang xum xoe chào đón một thời kỳ Bắc thuộc mới.
Hội ngộ là những bức tranh siêu thực chồng nhau theo một trật tự hắc ám: Một người đàn bà chồn đu đưa thân thể trong khu rừng độc, "nàng chun mũi nghiêng sang hướng bắc. Hướng bắc đến từ ngọn gió mang mùi của những đám cháy và của xương người. Nàng nghiêng hông về đằng nam. Hướng nam lờ lợ mùi bột ngọt và gươm đao." Một người đàn ông chỉ còn bảvai, không cổ, không tay, "một cánh tay đã chia cho phương Nam, một cánh tay đã chia cho phương Bắc. Chúng bị đạn tiện đứt lìa, trong hai lần khác nhau, một ở rừng, một ở biển". Một con ong lạc tổ loạng choạng trong đêm... Trên cánh và tấm lưng eo thắt, nồng nặc mùi ong Chúa, mùi ngục tù và tử khí. Con ong lạc đàn quờ quạng đâm sầm vào đầu vú người đàn ông không cổ không tay. Một con ong Chúa đang nằm thoi thóp, bỗng trở mình, nhận ra mùi phản trắc, nó hoàn toàn lai tỉnh, gửi "mật" lệnh "ngòn ngọt từ tử cung" -thứ mật ong Chúa dùng để mê hoặc và cầm tù đồng loại- huy động toàn bộ đàn ong thám tử đi truy lùng, xé xác con ong lạc tổ, bay trật đường rầy...
Hội ngộ giữ trọn vẹn sự bí mật của một văn bản thuần túy huyền ảo, là một bản thi họa giao duyên giữa đầu Ngô và mình Sở, tạo ra một thứ phi lý bức tử của một thế giới mà cõi sống phi nhân là phiên bản, là hậu thân của chiến tranh và đàn áp.
Người chăn bò thần thánh, là thứhiện thực huyền ảo trắng trợn, vẽ hẳn một bức tranh khôi hài, hãi hùng: Tổ chức nhân đạo quốc tế gửi tặng đàn bò sữa cho một vùng mà nhà nghiên cứu của tổ chức này đã mục kích tận mắt cảnh cả trăm người cầm dao quắn xông vào tranh nhau xẻo thịt một con trâu chết, loáng cái hết nhẵn. Lễ "khánh thành bò" được tổ chức vô cùng trọng thể, vú bò được thắt nơ, cổ bò được đeo các khẩu hiệu kinh điển: "cần kiệm liêm chính", "học tập đạo đức Hồ Chí Minh", "cán bộ là đầy tớ của nhân dân", v.v... Mọi việc được phân công rành rẽ, đàn bò trở thành bò tập thể dưới sự quản lý của nông trường.
Rủi thay, ông chủ tịch nông trường lại có đứa con cậu trời. Một hôm ông đi họp vắng, nó và lũ bạn thèm rượu thịt bèn lấy dao xẻo phắt miếng vai con bò ngoại, xơi tái. Người cha về la rầy, thằng con Khổng Minh rỉ tai hiến kế... xẻo thịt bò mà vô can. Mỗi miếng thịt xẻo được thay thế bằng một chiếc bong bóng thổi phồng dán vào thân bò. Kết cụcđàn bò ngoại trở thành trong suốt như bong bóng, một đàn bò thuần xương, không thịt. Thịt bò mừa mứa, ăn, bán không hết, đem đấm mõm cấp trên. Các nông trường viên chăn bò sợ bị đuổi không dám ho he. Các đoàn kiểm tra đã được nếm mùi bò ngoại đều chứng nhận những cỗ xương bò diđộng là bò đích thực. Thậm chí cả bọn rận, bọ chét, ve, mòng... cũng thoả mãn, chúng thả cửa no nê xơi tiệc sẵn trên thân bò lở lói, máu tràn vào miệng như lũ không cần vòi hút. Khi đã quán triệt nguồn lợi bò, ông chủ tịch nông trường bèn nhường chức lại cho người khác, xin cất nhắc lên chức to hơn, lần này có thể là nông trường chăn voi ngoại.
Bỗng đâu nhà nước nhận được một đơn kiện, bọn đầu đơn không ai xa lạ mà lại là bọn rận, bọ chét, ve, mòng, dĩn... thấy quyền lợi của chúng ngày càng có nguy cơ tận diệt, viết đơn tố cáo nhưvầy: "Đau xót vì tình trạng thịt rơi máu chảy của đàn bò, của tài sản tập thể bị xâm hại... Đàn bò hiện nay con nào cũng chỉ sót lại một mẩu thịt ở mông, còn tất cả da thịt và gân của chúng đều bị các chủ bò lần lượt xẻo đi và thay thế bằng những quả bóng trong suốt. Xin cấp trên trừng trị để làm gương..."Bọn ve mòng hý hửng đợi phép nước nghiêm minh, nào ngờ kết quả ngược lại: Trên đem toà án di động về "xét xử các tội phạm Ve, Mòng, Rận, Dĩn, bởi tiền sửchúng đen tối, hiện tại chúng mờ ám và tương lai của chúng không cải tạo được". Toà tuyên án tửhình cả bọn, hả hê coi như "đã triệt được nguyên nhân của mọi nguyên nhân". Nào ngờ vẫn chưa hết, một tin sét đánh, ban kiểm trađoàn bò quốc tế phôn về, đích thân đến tham quan. Thế là hoảng loạn, các phòng, các ban, các chủ bò xôn xao bàn cãi, quy trách nhiệm. Cuối cùng họ nhất trí ra chỉthị :"Bởi các nông trường viên chăn bò vô trách nhiệm, trình độ khoa học kém cỏi, nên đã để cho đàn bò mất hết thịt, nay phải xẻo thịt mình đền vào". Bọn chăn bò thấp cổ bé miệng không dám kêu ca, đành xẻo thịt mình đắp vào những chỗ trống. Đàn bò có da thịt trở lại. Một thế hệ Người chăn bò thần thánh mới lại xuất hiện, lần này họ không xẻo thịt bò nguyên chất, mà xẻo đàn bò đã đượcđắp thịt người.
Người đọc giật mình, quái đản, không hiểu từ đâu ra lối huyền ảo này?
Truyện Huyền ảo, huyền hoặc hay hoang đường, tiếng Pháp fantastique, tiếng Việt có nghiã: truyện ma quái, truyện hoang đường, truyện không có thật. Liêu trai chí dị là một loại huyền ảo kinh điển phương Đông, hoàn toàn khác với lối huyền ảo phương Tây hoặc châu Mỹla tinh. Huyền ảo gắn bó sâu sắc với tôn giáo, triết lý và môi trường sống khác nhau của mỗi dân tộc.
Dòng huyền ảo lâu đời nhất có lẽ là huyền ảo Châu Mỹ la tinh, gắn bó với thánh kinh Maya, trong đó, con người được thần ngô nặn lên từ bắp ngô. Ngô đối với người Maya như gạo đối với người Việt. Những truyện cổ tích của người Maya xưa xây dựng trên một vũ trụ mà thiên nhiên là chủ thể. Mây, núi, sông nước, cỏ,cây... điều hoà sự quân bình thế giới và sinh ra con người. Trái ngược với các hình thức cổ tích Đông Tây: con người là chủthể của muôn loài, thần thánh cũng là người.
Từ sự kiện thiên nhiên cây cỏ, muông thú đều có tiếng nói, đều có thể họa nên những hình thái nên thơ và dưỡng nuôi sự sống, người Maya đã tạo nên một khái niệm huyền ảo tự nhiên như ta ăn và thở.Sau này, các tác giả nổi tiếng Châu Mỹ la tinh đều dựa vào nguồn gốc văn hoá Maya của họ để tự tạo cho mình những hình thức huyền ảo cá biệt.
Ở Asturias, nhà văn Guatemala, là một thứ huyền ảo thuần khiết Maya, khái niệm "người ngô" (l'homme de maïs) vừa hiền lành, vừa bao quát thực tế: nếu không có ngũ cốc, làm sao con người sống sót, làm sao còn người. Asturias tranh đấu cho quê hương ông, chống lại chế độ thực dân, chống lại các thể chế độc tài, chống lại quyền lực của tưbản Mỹ áp đảo sự sống còn của nông dân trên nền đất Châu Mỹ la tinh.
Ở Marquez, nhà văn Colombie, là sựhuyền ảo khốc liệt của những người dân da đỏ hận thù những kẻ chinh phục (conquistadors) đã cưỡng hiếp tổ tiên mình để sinh ra mình. Một mối căm thù tổtiên, căm thù tác giả đẻ ra mình. Những quái thai, những bạo tàn, những tha hoá, loạn luân, những điềm, những mộng, những đầu người mình thú... trong truyện của Marquez, phản ảnh niềm uấtức truyền kiếp, khôn nguôi của những con người là sản phẩm, không phải của tình yêu mà của cuộc hãm hiếp tập thể một giống nòi, một dân tộc.
Về huyền ảo, Jean Paul Sartre phân tích: "Mô tả sự kỳ dị phi thường chưa phải là điều kiện cần và đủ để đạt tới huyền ảo. Một biến cố lạ kỳ, xẩy ra trong một xã hội có trật tự, có pháp lý, sẽ bị rơi vào vòng trật tự chung: Nếu bạn cho một con ngựa đột nhiên nói, thì tôi bảo nó bị ma làm trong chốc lát. Nhưng nếu bạn cho nó diễn thuyết dông dài suốt dọc hành trình qua rừng cây im lìm, trên nền đất bất động, tôi chấp nhận cho nó cái quyền nói, nhưng tôi không coi nó là ngựa nữa mà cho nó là người trá hình ngựa. Ngược lại, nếu bạn muốn làm cho tôi tin rằng con ngựa này là huyền ảo, thì bạn phải làm sao cho những hàng cây, đất đai và đồng ruộng cũng là huyền ảo nữa, mà bạn không cần nói ra".
Sartre viết tiếp: "Huyền ảo là một thế giới toàn diện mà sự vật biểu hiện một tư tưởng quyến rũ đòi đoạn, vừa bất thường vừa lôi cuốn, gặm nhấm trong cơ thể nhưng không thể diễn tả thành lời".
Và ông đưa ra một định nghiã huyềnảo: "Huyền ảo trình bầy hình ảnh lật ngược của sự hội tụ linh hồn và thểxác. Linh hồn chiếm chỗ của thể xác và thể xác chiếm chỗ của linh hồn. Để nhận diện hìnhảnh này, chúng ta không thể dùng những ý tưởng sáng tỏkhúc triết, mà phải dùng những ý tưởng rắm rối, "huyền ảo", nói cách khác, chúng ta phảiđi vào chỗ mờ ảo, với đầu óc trưởng thành, có văn hoá, với cá tính nhiệm mầu của một kẻ mơ mộng, của con người nguyên thuỷ, con người trẻ thơ." (Sartre, Aminadab, Situations I, Folio essais, trg 115).
Lối huyền ảo trong truyện ngắn của Võ Thị Hảo, phát sinh từ sự tùng xẻo, một "nghệ thuật" hành quyết mang đặc tính Đông phương, có trong sử sách Tầu, Việt. Lối huyền ảo của Võ ThịHảo mang chất nồi da xáo thịt, đặc tính Việt Nam. Lối huyền ảo của Võ ThịHảo mang tính áp đảo phụ quyền, cha truyền con nối trong gia đình, trong dòng họ,trong xã hội, trong chính quyền, từ Khổng Mạnh truyền thẳng sang Xít Ta Lin, Mao Hồ, Lê Duẩn... không trung gian, không đứt đoạn. Lối huyền ảo của Võ ThịHảo giao thoa độc tài và tham nhũng trong nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghiã, tạo nên những quái thai người ăn thịt người kiểu Lỗ Tấn. Lối huyền ảo của Võ Thị Hảo có cái dã man trong xã hội Mạc Ngôn.
Những nhà văn phụ nữ miền Bắc nhưDương Thu Hương, Phạm Thị Hoài, Võ Thị Hảo, có đặc tính khốc liệt mà những nhà văn nữ trong Nam không có. So cái khốc liệt trong văn chương Võ Thị Hảo thì cái sắc sảo trong văn chương Túy Hồng hiền như bụt. Tại sao? Bởi miền Nam đàn bà chưa phải đi lính, chưa nhìn thấy cái khốc liệt của chiến tranh. Bởi Dương Thu Hương, Võ Thị Hảo... sinh ra và lớn lên trong một môi trường không nhân nhượng. Dương Thu Hương đã chứng kiến cảnh đấu tố, đã đi đánh nhau. Võ Thị Hảo sinh sau, nhưng đã thu thập vốn liếng bạo lực của những người đã nhận nhưng phải gói ghém, giấu diếm trong lòng: những người mẹ,người chị, xung phong đi lính, đi hộlý, trở về điên dại trong Rừng cười. Như nam châm, Hảo thu hút những khối u mà người xấu số để lại hôm qua, và hôm nay con em họ vẫn còn tiếp tục cúi đầu nhậnđộc tố của một gia đình, một xã hội, một thể chế, gọi là mới, nhưng tất cả đều cũ, đều cổ, đều mục nát, như đầu óc, như sự phục tòng của họ.
Là nhà văn dấn thân trong chiều dầy của hai chữ dấn thân, là phụ nữ tranh đấu, Võ thị Hảo biết nếu con người không thay đổi suy nghĩ, không biết suy nghĩ, thì đất nước không thể đứng dậy. Điều kiện tiên quyết làm thay đổi xã hội, thay đổi chính trị là người phụ nữ phải thay đổi trước. Sự bất phục tòng của họ sẽ là nền tảng của tất cả mọi thay đổi.
Chất huyền ảo trong truyện của Võ Thị Hảo, là sự huyền ảo của những bức tranh siêu thực trong đó con người đã bịcắt chân tay, mỗi tứ chi ném đi một nơi, nam bỏ ra bắc, bắc bỏ vào nam, chúng gọi nhau, đầu tìm cổ,cổ tìm vai, trong một định mệnh điên cuồng của xã hội âm ty trần thế. Cái thác loạn ấy sống lại trong những thông tin hàng ngày, trong những vụ án mạng nhưcơm bữa, trong những hàng tin xe cán chó: con giết cha, chồng giết vợ, dẫy đầy trên mặt báo. Võ Thị Hảo lượm lặt những tin tức chó cán, viết ra, đặt nó trong cái huyền hoặc hàng ngày của cuộc sống. Ngòi bút của chịlột trần mặt trái bi kịch, tìm đến chiều sâu lịch sử của bi kịch, từ đấy Hảo chỉ đích danh tội ác, chỉ cái thủ phạm nấp đằng sau tội ác, chỉ cái cha đẻ của tội ác để vạch ra sự ngu muội của con người. Mục đích của Võ Thị Hảo là vén màn phát giác sự ngu muội của con người. Con người mụ mị chấp nhận độc tài, con người gật đầu tất cả để được yên thân, con người bị đàn áp tư tưởng, cúi mọp chịu phận. Võ Thị Hảo muốn giải phẫu, móc cái mê, cái sợ,ra khỏi trái tim con người.
Một mình một ngựa, vén màn đối lập bằng cách xây dựng thành lũy huyền ảo trên những con người đã bị xé xác, hồn phanh trăm mảnh, để chống lại thành trì kiên cố xây bằng vi khuẩn tham nhũng, lừa đảo, trộm cắp, điêu ngoa của những con ong Chúa mê hoặc đồng loại bằng thứmật ngọt giết người. Hiện thực huyền ảo của Võ Thị Hảo là cuộc trực chiến giữa hai thành trì. Võ một mình một trận chiến. Một mình một nghiã địa.
(Paris, 24/11/2012)
(iii) Trần Mộng Tú
Mùa Đông và CHÚA
Sáng nay trời bắt đầu vào đông
con đường ướt đưa tôi đến nhà thờ
trên thánh giá Chúa không có áo
hai vai Người đọng những hạt thơ
Ngày hôm qua cây liễu trong vườn
thả những chiếc lá mềm như lụa
tôi rung những cành đã hết mầu xanh
cây trút xuống trận mưa vàng úa
No comments:
Post a Comment