Popular Posts

Thursday, October 27, 2016

CHUYỆN CỦA HAI THÀNH PHỐ




---------- Forwarded message ----------
From: Van-Nghe
CHUYỆN CỦA HAI THÀNH PHỐ

Khac Giang

October 23, 2016 ·




Vào đầu những năm 1960, một quốc đảo gần như bị “ép” phải độc lập, khi bị trục xuất khỏi Liên bang Malaysia. Với diện tích xấp xỉ Phú Quốc, lãnh tụ của quốc đảo này lúc đó từng nhìn về phía bắc biển Đông, và mơ ước đất nước của ông sẽ có ngày phát triển giống như Sài Gòn. Đó là câu chuyện của Singapore và Lý Quang Diệu.

Sau 50 năm, hòn đảo nhỏ ngày xưa là một trong những quốc gia thịnh vượng nhất trên thế giới, là đầu tầu không chỉ trong lĩnh vực mà họ có lợi thế từ trước (cảng biển), mà còn trong cả các lĩnh vực đòi hỏi hàm lượng tri thức rất cao như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, hay dịch vụ tài chính. Nếu còn có danh hiệu hòn ngọc Viễn Đông, thì Singapore không có đối thủ cạnh tranh.

Không chỉ có Singapore, qua giai đoạn 50 năm qua, lần lượt từ Hàn Quốc, Đài Loan, Malaysia, hay Thái Lan đều cho Việt Nam “hít khói” trên con đường đến thịnh vượng. Truy kích nguyên nhân cho sự chậm chạp này, nhiều ý kiến quay ra phê phán “dân tộc tính”, cho rằng bản chất của người Việt khiến cho đất nước trì trệ.


“Người Việt” có nhược tiểu?

Câu chuyện đổ lỗi cho “dân tộc tính” khiến cho quốc gia không thịnh vượng không phải là mới. Xuất phát điểm có thể bắt đầu từ hơn 10 năm trước, với ý kiến của nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn cho rằng tính cách tự ti, thiếu chiều sâu, tiểu nông, và ít có khao khát khám phá thế giới,…vốn là rào cản cho sự phát triển của dân tộc. Tiếp theo ông Vương Trí Nhàn, cũng có nhiều người khác cho rằng “dân tộc tính” là nguyên do khiến Việt Nam mãi trì trệ.

Theo tôi, có hai nghi vấn lớn cho cách tiếp cận này.

Thứ nhất, có thực sự tồn tại “dân tộc tính” – đặc tính chung của 90 triệu người Việt với văn hoá, địa phương, ngôn ngữ, dân tộc,…khác nhau hay không?

Thứ hai, cứ cho là có tồn tại “dân tộc tính”, liệu bản tính này tồn tại vĩnh viễn hay sẽ thay đổi theo thời gian? Và nếu có, thì yếu tố nào quyết định sự thay đổi đó?

Thay vì cố gắng trả lời hai câu hỏi trên, tôi sẽ quay trở lại ví dụ của Singapore và Lý Quang Diệu. Thời kì ông Diệu bắt đầu công cuộc xây dựng một Singapore mới thì ở trên thế giới có ba mô hình thể chế chính trị thống lĩnh bởi người Hoa và gốc Hoa: CHND Trung Hoa, Đài Loan, và Singapore.

Giả dụ như giả thuyết về “dân tộc tính” là đúng, thì nghiễm nhiên sự phát triển của ba nền kinh tế này sẽ đi cùng hướng với nhau. Thế nhưng sau 40 năm, nếu như Trung Quốc, dù là quốc gia có quy mô kinh tế lớn thứ nhì thế giới, phát triển chủ yếu dựa vào số lượng hơn chất lượng, và đến thời gian gần đây mới bắt đầu “chuyển hướng” sang nền kinh tế tri thức. Còn Singapore và Đài Loan luôn là những nền kinh tế có trình độ phát triển bậc nhất châu Á, tập trung chính vào ngành dịch vụ và có giá trị gia tăng cao.

Nếu xét về yếu tố xã hội, tức sự “văn minh” trong ứng xử giữa hai quốc đảo này và Trung Hoa đại lục, thì sự khác biệt lại càng rõ ràng. Trong khi người Trung Quốc lục địa mang tiếng xấu đi khắp nơi với cách xử sự nơi công cộng, thì người Đài Loan và người Singapore gốc Hoa lịch lãm không khác gì người Nhật hay các quốc gia phát triển khác.

Vì thế, nếu coi “dân tộc tính” là căn nguyên cho sự thịnh vượng, thì rất khó để giải thích cho sự khác biệt của ba vùng lãnh thổ nói trên.

Những người theo trường phái “dân tộc tính” sẽ có thể viện dẫn đến nghi vấn thứ hai, tức “dân tộc tính” có thể thay đổi theo thời gian. Nhưng như vậy, yếu tố quyết định của sự thịnh vượng sẽ không còn là “dân tộc tính” nữa, mà là các yếu tố tạo ra nó. Đó chính là thể chế: môi trường, khung khổ pháp luật, và các điều kiện chính trị – xã hội.

 
Thịnh vượng đến từ cải cách thể chế

Đã có nhiều đồng thuận giữa các nhà kinh tế trong vài thập niên trở lại đây rằng thể chế có vai trò quyết định đối với sự thăng trầm của một quốc gia: các nước nghèo, kém phát triển không phải bởi các quốc gia này thiếu nguồn lực, mà do sự thiếu vắng của các thể chế kinh tế và chính trị hiệu quả, thân thiện với thị trường và xã hội dân sự.

Thành tựu của Việt Nam hiện nay, không ai có thể phủ nhận là do việc cải cách hệ thống thể chế kinh tế từ một nền kinh tế hoạch định tập trung sang nền kinh tế thị trường cách đây tròn 30 năm. Nhờ sự thay đổi này, Việt Nam đã chuyển mình từ một quốc gia nghèo nàn thành một nền kinh tế lớn nằm trong nhóm 50 quốc gia có qui mô kinh tế lớn nhất thế giới, với mức GDP trên đầu người đạt trên 2.000 USD vào năm 2014.

Đó là những điểm chung của các dân tộc châu Á thành công: Trung Quốc thực hiện cải cách thị trường trước nước ta gần 10 năm (1978), Đài Loan, Singapore, Hàn Quốc thực hiện cách chúng ta hơn 20 năm (từ cuối những năm 1950 đến đầu 1960).

Tuy nhiên, điểm khác biệt lớn nhất của nước ta so với các nước kể trên là sự nửa vời trong những quyết tâm cải cách. Nếu như những con rồng châu Á đã tách bạch rõ ràng vai trò của nhà nước và thị trường, mỗi người làm một việc, thì chúng ta dường như vẫn loay hoay giữa mô hình “nhà nước phụ mẫu” hay “nhà nước kiến tạo” như đề xuất của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc.

Khi Hàn Quốc tạo ra những quả đấm thép Chaebol vào những năm 60, Việt Nam cũng nỗ lực xây dựng “quả đấm thép” cuối những năm 2000. Nhưng chính phủ Hàn Quốc lúc đó tập trung ưu đãi nguồn lực cho các doanh nghiệp tư nhân tiềm năng, tự cạnh tranh và phát triển, thì nước ta lại đổ tiền đi nuôi cách doanh nghiệp nhà nước. Sự khác biệt giữa những Samsung, Hyundai, Posco, và Vinashin, Vinalines, hay những “ông kẹ” nhà nước khác là rất rõ.

Đó chỉ là một trong vô số những ví dụ cho thấy những vấn đề thể chế tác động như thế nào đến “của cải” của quốc gia. Chúng ta đòi hỏi mọi người có tinh thần khởi nghiệp, phải làm giàu để đưa đất nước thịnh vượng, nhưng khi môi trường kinh doanh không được cải thiện nhiều (Việt Nam đứng thứ 90/189 trong xếp hạng của World Bank 2015, thua xa các “con rồng châu Á”), khả năng kiểm soát tham nhũng kém, thì yêu cầu các doanh nhân hoá hổ, hoá rồng là rất khó khả thi.

Từ năm 2008 trở lại đây, sự chững lại của nền kinh là dấu hiệu cho thấy động lực từ quá trình “Đổi mới 1.0” đã sắp cạn. Để bứt phá sang giai đoạn mới, tiến hành “Đổi mới 2.0” là tất yếu để xoá bỏ những rào cản xuất phát từ hệ thống pháp trị và quản trị nhà nước chưa hoàn thiện, những chính sách can thiệp không phù hợp, nhằm xây dựng thể chế thị trường hoàn thiện và đầy đủ hơn.

“Hoàn thiện và đẩy đủ” ở đây không chỉ là tạo ra các thiết chế cần thiết cho một nền kinh tế thị trường hoàn chỉnh như sở hữu tư nhân, tự do kinh doanh, …mà còn cần khuyến khích sự tham gia của đại đa số dân chúng vào các hoạt động kinh tế – xã hội, sử dụng tốt nhất tài năng và trình độ của họ trong từng lĩnh vực. Điều đó cần tư duy lập pháp và điều hành cởi mở và thông thoáng hơn, thay vì trói buộc vào các gông cùm tư tưởng tự mình tạo ra.

Thay đổi thế chế, xét về mặt nào đó, là khó và cần nhiều thời gian, quyết tâm lẫn nguồn lực. Nhưng nếu thực hiện được, thì về lâu dài, ngay cả “dân tộc tính” mà chúng ta hay ca thán cũng sẽ thay đổi theo hướng tốt dần lên. Bởi đặc tính của mỗi dân tộc, suy cho cùng, cũng bị định hình bởi môi trường xoay quanh nó.


__._,_.___

Posted by: <tntimnguyen0

No comments:

Post a Comment

Featured Post

NHỮNG KHÔI HÀI VỀ . . . Chữ Nghĩa Việt Cộng.

  NHỮNG KHÔI HÀI VỀ . . . Chữ Nghĩa Việt Cộng. 1. - Ai cũng biết VC là vua chơi chữ, lúc chúng ...

Popular Posts

Popular Posts

Popular Posts

My Blog List