Những Mùa Xuân Ghi Dấu,
Kỳ 1: Đội Hình Bảo Vệ Hoàng Sa
Nguyễn văn Phảy
Thời
gian không dừng lại, cuộc đời trải qua bao nỗi thăng trầm. Mỗi độ Xuân về nơi
xứ người làm cho tôi thêm ray rức. Ở đây làm sao có Xuân để đón. Khi Mùa Xuân
về trên quê hương thì nơi tôi định cư là vào mùa Đông. Tuyết trắng phủ khắp
không gian, trời rất lạnh. Nhiệt độ âm, khoảng - 5 cho đến -15 độ Celcius. Đôi
khi, hệ thống lưu thông có phần tắt nghẽn. Với những phút suy tư về cuộc đời,
về thời cuộc, tôi ghi lại đôi giòng những cảm nghĩ liên quan đến những mùa Xuân
được ghi dấu trong tôi.
Mùa Xuân Kỷ Dậu 1789:
Hôm nay là ngày mùng 5 tháng giêng năm Quý Tỵ, 2013, đánh dấu Mùa Xuân Chiến Thắng cách đây 224 năm nhằm ngày 30 tháng 1 năm 1789 tức là ngày mùng 5 tháng giêng năm Kỷ Dậu mà toàn dân Việt Nam luôn ghi nhớ.
Quang Trung Hoàng
Khi vua Chiêu Thống sang cầu cứu nhà Thanh, lúc đó vua Thanh là Càn Long. Vua Thanh sai Tổng đốc Lưỡng Quảng là Tôn Sĩ Nghị lấy cớ phò vua Lê Chiêu Thống trở lại Đại Việt, đem 20 vạn quân qua xâm lăng và chiếm đóng Thăng Long năm Mậu Thân, 1788. Được tin đó, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng Đế, lấy niên hiệu là Quang Trung, đóng đô ở Phú Xuân, tiến quân ra Bắc Hà.
Trận Gò Đống Đa, đồn Ngọc Hồi vào đầu năm 1789 do Hoàng Đế Quang Trung lãnh đạo, chỉ huy khoảng 10 vạn quân Đại Việt đánh bại 20 vạn quân Thanh để mang lại thái bình cho đất nước. Đó là mùa Xuân Chiến Thắng Kỷ Dậu huy hoàng của dân tộc Việt Nam.
Mùa Xuân Mậu Thân - Tổng Công Kích Tết Mậu Thân 1968 tại Huế:
Khi gia nhập vào quân đội, tôi mới được nghe những bạn bè ở Thừa Thiên kể chuyện về Tết Mậu Thân 1968 tại Huế thật khủng khiếp quá. Với hoà ước ngưng chiến giữa cộng quân Bắc Việt và quân đội VNCH vào dịp Xuân về, toàn dân miền Nam hân hoan đón mừng Năm Mới. Trong khi mọi người ăn Tết an vui thái bình vào ngày mùng một thì rạng sáng ngày mùng hai, cộng quân phản bội hoà ước, bắt đầu tổng tấn công vào nhiều thành phố và xóm làng tại miền Nam. Riêng tại Huế, nhiều ngàn người bị giết chết bằng đủ kiểu cách, bị giết cá nhân cũng như bị giết tập thể. Thời điểm đó, quê hương tôi trận chiến cũng xảy ra nhưng ở mức độ không ác liệt như ở Huế. Năm 1968 tôi còn là một học sinh nên cũng chẳng để ý nhiều về cuộc chiến. Tôi chỉ nghe tin tức trên đài phát thanh nhiều hơn là đọc báo. Do đó nhiều hình ảnh tang thương của quê hương, cũng như cảnh chết chóc của đồng bào tại Huế tôi khó mà mường tượng. Khi lập gia đình, vợ tôi là người Huế và có 2 người chú ruột cũng bị cộng quân giết chết vào Tết Mậu Thân nên tôi mới hiểu nhiều hơn. Ra hải ngoại đọc thêm nhiều hồi ký, nhiều sách truyện của những tác giả là chứng nhân đã viết như “Giải Khăn Sô cho Huế” của Nhã Ca, tôi mới thấy được một cuộc chiến quá dã man, nhiều kiểu giết người không gớm tay.
Mùa Xuân Quý Sửu - Hiệp Định Đình Chiến Paris 1973:
Rồi một mùa Xuân nữa lại trở về trong niềm hân hoan chờ đón của toàn dân miền Nam Việt Nam, mặc dù hình ảnh Tết Mậu Thân 5 năm về trước vẫn còn ấn tượng cho người dân Huế. Nhưng đối với các thành phố khác, không khí tiết Xuân đã làm cho lòng người hân hoan đón chào sau một năm dài vất vả với công ăn việc làm. Đặc biệt vào mùa Xuân năm ấy, dân tộc mình còn gì vui hơn khi được tin Hiệp Định Đình Chiến Paris vừa được ký kết vào ngày 27.1.1973 tức là ngày 24 tháng chạp năm Nhâm Tý. Tin tức về Hiệp Định Đình Chiến được truyền đi nhanh chóng trên những phương tiện truyền thông. Chiến tranh tại Việt Nam được chấm dứt. Lúc đó tôi nghĩ ngợi mông lung. Có lẽ tôi cũng cùng tâm trạng như mỗi chiến sĩ quân lực VNCH trên khắp mọi nẻo đường đất nước, như mỗi tân binh, như mỗi sinh viên sĩ quan, ai ai cũng vui mừng khôn tả rằng hoà bình đến với quê hương Việt Nam. Mỗi người có thể dệt ước mơ cho mình một cuộc sống thanh bình thời hậu chiến.
Riêng tôi thì mong ước tiếp tục cuộc đời sinh viên thuần tuý mà mình đã đến và đã xếp bút nghiên ra đi tòng quân cứu nước:
“Trả lại em yêu khung trời Đại học. Con đường Duy Tân cây dài bóng mát…”
Bây giờ tôi sẽ trở lại con đường xưa yêu dấu, cố gắng học thành tài và mong rằng góp phần xây dựng quê hương thời hậu chiến. Một trời ước mơ đến với tôi ! Bạn bè tôi cũng vậy. Đứa nào cũng có văn bằng tối thiểu là tú tài 2 để được tuyển chọn vào quân chủng Hải quân Quân lực VNCH. Có bạn đã vào đại học được một, vài, ba năm trước khi bị động viên vào lính. Giờ đây, đất nước thái bình thì sẽ tiếp tục việc học trở lại để trở thành những chuyên gia với kiến năng đa hiệu, sẽ giúp ích cho xã hội, góp phần tái thiết quê hương - một quê hương đã phải gánh chịu bao cảnh tang thương, ruộng vườn nhà cửa… bị tàn phá qua những năm dài chinh chiến. Thật là một tầng lớp nhân tài, những chuyên viên ưu tú của đất nước thời hậu chiến.
Lúc bấy giờ tôi đang thụ huấn giai đoạn 2 tại trường Sĩ Quan Hải Quân Nha Trang. Trước khi tôi được thuyên chuyển từ Bộ Tư Lệnh Hạm Đội Hải Quân Sài Gòn ra Trường Sĩ Quan Hải Quân Nha Trang thụ huấn, chúng tôi đã được huấn luyện căn bản quân sự tại Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung kéo dài 3 tháng. Tiếp theo là đi thực tập trên các chiến hạm của Hải Quân VNCH. Riêng tôi cũng đã được phân phối đi thực tập trên Hoả Vận Hạm HQ471 (2 tháng) và Hộ Tống Hạm Nhật Tảo HQ10 (7 tháng) để làm quen với biển cả cũng như học hỏi về hải nghiệp.
Đi tàu biển tôi mới hiểu được cụm từ “cho cá ăn chè” hoặc “ôm sô”. Trên chiến hạm Nhật Tảo HQ10, nhóm SVSQ chúng tôi gồm có 10 bạn và được chia làm 3 ca (quart), còn gọi là phiên. Tôi trực thuộc một ca. Trưởng ca là HQ Thiếu uý Lê văn Từ, thủ khoa Khoá 19 SQHQNT ngành Chỉ huy. Trong thời gian đi thực tập trên chiến hạm, tôi đã học được rất nhiều điều hữu ích về hải nghiệp với sự chỉ dẫn tận tình của sĩ quan trưởng ca.
Tôi còn nhớ vào một hôm biển động mạnh, trời mưa, tôi hết ca từ đài chỉ huy HQ10 đi xuống phòng ngủ, mặt mày hơi tái xanh vì khá mệt. Bạn bè hỏi thăm tôi rằng có “cho cá ăn chè” không?. Tôi không hiểu và hỏi: Hôm nay nhà bếp có nấu chè sao? Các bạn cười rộ. Một bạn thốt lên: Tụi nó hỏi mầy rằng biển động như vậy mầy có bị “mửa” không đó. Từ đó tôi mới hiểu cụm từ “cho cá ăn chè”.
Trước khi gia nhập vào Hải quân tôi cũng thường nghe nhạc phẩm Hoa Biển của nhạc sĩ Hải quân Anh Thy. Khi đi thực tập trên chiến hạm ngoài biển khơi hàng tuần, tôi mới hiểu được hoa biển trong văn chương. Khi sóng nhẹ, hoa biển xuất hiện trên mặt biển dưới bóng trăng đêm với vẻ đẹp nên thơ, nhưng khi trùng dương dậy sóng, hoa biển được bắn tung toé lên đài chỉ huy của chiến hạm, nơi đâu cũng thấy toàn là hoa biển thì mới thấm thía về cuộc đời “thuỷ thủ và biển cả”. Nhưng đổi lại, đó là lúc tập luyện “sự nhẫn nại của con người và chắc chắn sẽ hữu ích cho cuộc đời” và cuộc đời tôi đã chứng minh và đã trải qua.
Là sinh viên sĩ quan (SVSQ), vào mùa Xuân Quý Sửu chúng tôi đang mang cấp bậc tương đương Chuẩn uý (dấu hiệu Alpha Omega). Khoá đào tạo Sĩ Quan Hải Quân của chúng tôi kéo dài 2 năm. Chúng tôi được tiếp tục đào tạo chuyên môn gần 9 tháng nữa mới tốt nghiệp. Việc học hành nơi quân trường cũng khá gian nan. Những môn học như toán bậc đại học để ứng dụng vào lãnh vực điện tử, môn điện kỹ nghệ, môn điện tử, môn thiên văn học, quản trị học, lãnh đạo chỉ huy, nhiên liệu, cơ khí, hàng hải, Anh văn v.v. đủ làm cho mỗi sinh viên chúng tôi đừ người. Mỗi ngày có từ 6 đến 8 giờ học ở giảng đường. Ngoài ra còn có thêm thời gian luân phiên đi tham quan và thực tập trên các chiến hạm. Ngoài giờ ở phòng học, chiều về chúng tôi còn phải tập diễn hành nơi sân vận động của quân trường để chuẩn bị cho cuộc diễn hành mừng ngày Quân Lực 19.6.1973 tại Sài Gòn.
Mùa Xuân Kỷ Dậu 1789:
Hôm nay là ngày mùng 5 tháng giêng năm Quý Tỵ, 2013, đánh dấu Mùa Xuân Chiến Thắng cách đây 224 năm nhằm ngày 30 tháng 1 năm 1789 tức là ngày mùng 5 tháng giêng năm Kỷ Dậu mà toàn dân Việt Nam luôn ghi nhớ.
Quang Trung Hoàng
Khi vua Chiêu Thống sang cầu cứu nhà Thanh, lúc đó vua Thanh là Càn Long. Vua Thanh sai Tổng đốc Lưỡng Quảng là Tôn Sĩ Nghị lấy cớ phò vua Lê Chiêu Thống trở lại Đại Việt, đem 20 vạn quân qua xâm lăng và chiếm đóng Thăng Long năm Mậu Thân, 1788. Được tin đó, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng Đế, lấy niên hiệu là Quang Trung, đóng đô ở Phú Xuân, tiến quân ra Bắc Hà.
Trận Gò Đống Đa, đồn Ngọc Hồi vào đầu năm 1789 do Hoàng Đế Quang Trung lãnh đạo, chỉ huy khoảng 10 vạn quân Đại Việt đánh bại 20 vạn quân Thanh để mang lại thái bình cho đất nước. Đó là mùa Xuân Chiến Thắng Kỷ Dậu huy hoàng của dân tộc Việt Nam.
Mùa Xuân Mậu Thân - Tổng Công Kích Tết Mậu Thân 1968 tại Huế:
Khi gia nhập vào quân đội, tôi mới được nghe những bạn bè ở Thừa Thiên kể chuyện về Tết Mậu Thân 1968 tại Huế thật khủng khiếp quá. Với hoà ước ngưng chiến giữa cộng quân Bắc Việt và quân đội VNCH vào dịp Xuân về, toàn dân miền Nam hân hoan đón mừng Năm Mới. Trong khi mọi người ăn Tết an vui thái bình vào ngày mùng một thì rạng sáng ngày mùng hai, cộng quân phản bội hoà ước, bắt đầu tổng tấn công vào nhiều thành phố và xóm làng tại miền Nam. Riêng tại Huế, nhiều ngàn người bị giết chết bằng đủ kiểu cách, bị giết cá nhân cũng như bị giết tập thể. Thời điểm đó, quê hương tôi trận chiến cũng xảy ra nhưng ở mức độ không ác liệt như ở Huế. Năm 1968 tôi còn là một học sinh nên cũng chẳng để ý nhiều về cuộc chiến. Tôi chỉ nghe tin tức trên đài phát thanh nhiều hơn là đọc báo. Do đó nhiều hình ảnh tang thương của quê hương, cũng như cảnh chết chóc của đồng bào tại Huế tôi khó mà mường tượng. Khi lập gia đình, vợ tôi là người Huế và có 2 người chú ruột cũng bị cộng quân giết chết vào Tết Mậu Thân nên tôi mới hiểu nhiều hơn. Ra hải ngoại đọc thêm nhiều hồi ký, nhiều sách truyện của những tác giả là chứng nhân đã viết như “Giải Khăn Sô cho Huế” của Nhã Ca, tôi mới thấy được một cuộc chiến quá dã man, nhiều kiểu giết người không gớm tay.
Mùa Xuân Quý Sửu - Hiệp Định Đình Chiến Paris 1973:
Rồi một mùa Xuân nữa lại trở về trong niềm hân hoan chờ đón của toàn dân miền Nam Việt Nam, mặc dù hình ảnh Tết Mậu Thân 5 năm về trước vẫn còn ấn tượng cho người dân Huế. Nhưng đối với các thành phố khác, không khí tiết Xuân đã làm cho lòng người hân hoan đón chào sau một năm dài vất vả với công ăn việc làm. Đặc biệt vào mùa Xuân năm ấy, dân tộc mình còn gì vui hơn khi được tin Hiệp Định Đình Chiến Paris vừa được ký kết vào ngày 27.1.1973 tức là ngày 24 tháng chạp năm Nhâm Tý. Tin tức về Hiệp Định Đình Chiến được truyền đi nhanh chóng trên những phương tiện truyền thông. Chiến tranh tại Việt Nam được chấm dứt. Lúc đó tôi nghĩ ngợi mông lung. Có lẽ tôi cũng cùng tâm trạng như mỗi chiến sĩ quân lực VNCH trên khắp mọi nẻo đường đất nước, như mỗi tân binh, như mỗi sinh viên sĩ quan, ai ai cũng vui mừng khôn tả rằng hoà bình đến với quê hương Việt Nam. Mỗi người có thể dệt ước mơ cho mình một cuộc sống thanh bình thời hậu chiến.
Riêng tôi thì mong ước tiếp tục cuộc đời sinh viên thuần tuý mà mình đã đến và đã xếp bút nghiên ra đi tòng quân cứu nước:
“Trả lại em yêu khung trời Đại học. Con đường Duy Tân cây dài bóng mát…”
Bây giờ tôi sẽ trở lại con đường xưa yêu dấu, cố gắng học thành tài và mong rằng góp phần xây dựng quê hương thời hậu chiến. Một trời ước mơ đến với tôi ! Bạn bè tôi cũng vậy. Đứa nào cũng có văn bằng tối thiểu là tú tài 2 để được tuyển chọn vào quân chủng Hải quân Quân lực VNCH. Có bạn đã vào đại học được một, vài, ba năm trước khi bị động viên vào lính. Giờ đây, đất nước thái bình thì sẽ tiếp tục việc học trở lại để trở thành những chuyên gia với kiến năng đa hiệu, sẽ giúp ích cho xã hội, góp phần tái thiết quê hương - một quê hương đã phải gánh chịu bao cảnh tang thương, ruộng vườn nhà cửa… bị tàn phá qua những năm dài chinh chiến. Thật là một tầng lớp nhân tài, những chuyên viên ưu tú của đất nước thời hậu chiến.
Lúc bấy giờ tôi đang thụ huấn giai đoạn 2 tại trường Sĩ Quan Hải Quân Nha Trang. Trước khi tôi được thuyên chuyển từ Bộ Tư Lệnh Hạm Đội Hải Quân Sài Gòn ra Trường Sĩ Quan Hải Quân Nha Trang thụ huấn, chúng tôi đã được huấn luyện căn bản quân sự tại Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung kéo dài 3 tháng. Tiếp theo là đi thực tập trên các chiến hạm của Hải Quân VNCH. Riêng tôi cũng đã được phân phối đi thực tập trên Hoả Vận Hạm HQ471 (2 tháng) và Hộ Tống Hạm Nhật Tảo HQ10 (7 tháng) để làm quen với biển cả cũng như học hỏi về hải nghiệp.
Đi tàu biển tôi mới hiểu được cụm từ “cho cá ăn chè” hoặc “ôm sô”. Trên chiến hạm Nhật Tảo HQ10, nhóm SVSQ chúng tôi gồm có 10 bạn và được chia làm 3 ca (quart), còn gọi là phiên. Tôi trực thuộc một ca. Trưởng ca là HQ Thiếu uý Lê văn Từ, thủ khoa Khoá 19 SQHQNT ngành Chỉ huy. Trong thời gian đi thực tập trên chiến hạm, tôi đã học được rất nhiều điều hữu ích về hải nghiệp với sự chỉ dẫn tận tình của sĩ quan trưởng ca.
Tôi còn nhớ vào một hôm biển động mạnh, trời mưa, tôi hết ca từ đài chỉ huy HQ10 đi xuống phòng ngủ, mặt mày hơi tái xanh vì khá mệt. Bạn bè hỏi thăm tôi rằng có “cho cá ăn chè” không?. Tôi không hiểu và hỏi: Hôm nay nhà bếp có nấu chè sao? Các bạn cười rộ. Một bạn thốt lên: Tụi nó hỏi mầy rằng biển động như vậy mầy có bị “mửa” không đó. Từ đó tôi mới hiểu cụm từ “cho cá ăn chè”.
Trước khi gia nhập vào Hải quân tôi cũng thường nghe nhạc phẩm Hoa Biển của nhạc sĩ Hải quân Anh Thy. Khi đi thực tập trên chiến hạm ngoài biển khơi hàng tuần, tôi mới hiểu được hoa biển trong văn chương. Khi sóng nhẹ, hoa biển xuất hiện trên mặt biển dưới bóng trăng đêm với vẻ đẹp nên thơ, nhưng khi trùng dương dậy sóng, hoa biển được bắn tung toé lên đài chỉ huy của chiến hạm, nơi đâu cũng thấy toàn là hoa biển thì mới thấm thía về cuộc đời “thuỷ thủ và biển cả”. Nhưng đổi lại, đó là lúc tập luyện “sự nhẫn nại của con người và chắc chắn sẽ hữu ích cho cuộc đời” và cuộc đời tôi đã chứng minh và đã trải qua.
Là sinh viên sĩ quan (SVSQ), vào mùa Xuân Quý Sửu chúng tôi đang mang cấp bậc tương đương Chuẩn uý (dấu hiệu Alpha Omega). Khoá đào tạo Sĩ Quan Hải Quân của chúng tôi kéo dài 2 năm. Chúng tôi được tiếp tục đào tạo chuyên môn gần 9 tháng nữa mới tốt nghiệp. Việc học hành nơi quân trường cũng khá gian nan. Những môn học như toán bậc đại học để ứng dụng vào lãnh vực điện tử, môn điện kỹ nghệ, môn điện tử, môn thiên văn học, quản trị học, lãnh đạo chỉ huy, nhiên liệu, cơ khí, hàng hải, Anh văn v.v. đủ làm cho mỗi sinh viên chúng tôi đừ người. Mỗi ngày có từ 6 đến 8 giờ học ở giảng đường. Ngoài ra còn có thêm thời gian luân phiên đi tham quan và thực tập trên các chiến hạm. Ngoài giờ ở phòng học, chiều về chúng tôi còn phải tập diễn hành nơi sân vận động của quân trường để chuẩn bị cho cuộc diễn hành mừng ngày Quân Lực 19.6.1973 tại Sài Gòn.
Các
hình ảnh tàu chiến 2 bên.
Vào
ban đêm, SVSQ chúng tôi lại phải vào giảng đường để ôn bài cho tới khuya, chuẩn
bị cho những kỳ thi sau mỗi thời gian học. Tinh thần học tập của SVSQ cũng khá
căng thẳng vì SVSQ nào cũng sợ thi bị rớt, nhất là vào kỳ thi tốt nghiệp. Đối
với những SVSQ thi rớt ở giai đoạn 1 (sau 1 năm thụ huấn đầu tiên) thì cũng
phải bị đưa ra đơn vị và mang cấp bậc Trung sĩ. SVSQ đó cũng phải chờ 2 năm,
cách 1 khoá kế tiếp mới được về học lại từ đầu. Còn đối với SVSQ thi rớt ở kỳ
thi tốt nghiệp thuộc giai đoạn 2 thì cũng phải bị đưa ra đơn vị với cấp bậc
Chuẩn uý. Lẽ tất nhiên Chuẩn uý sẽ không được thăng cấp tự động mà phải chờ đợi
khoá thứ 2 kế tiếp mới được trở về học lại 1 năm, rồi thi tốt nghiệp trở lại.
Biệt Điện Bảo Đại tại Nha Trang
Vào một buổi chiều tối Xuân, tôi thuộc toán SVSQ đi ứng chiến tại Biệt Điện Bảo Đại nằm ở phía Nam thành phố Nha Trang gần trường Sĩ Quan Hải Quân, cách khoảng vài ba cây số. Biệt Điện được xây dựng trên ngọn đồi không cao lắm, đủ tầm nhìn ra khơi và hướng về phố thị. Nhìn ra biển, mặt nước xanh biếc. Cận bến bờ Cầu Đá là thương cảng Nha Trang, nơi đó chúng tôi có thể tập lái những chiếc ca-nô (yuyu), dùng để chở quân đổ bộ khi học về môn vận chuyển. Thấp thoáng những đợt sóng êm đềm lướt theo làn gió Xuân nhè nhẹ tạo thành những âm điệu rì rào rung cảm lòng người lữ thứ. Hướng về thương cảng, cách Biệt Điện khoảng 400 mét đường chim bay là Hải Học Viện Nha Trang được thành lập vào năm 1922. Từ năm 1969 Hải Học Viện trực thuộc Viện Đại Học Sài Gòn, là nơi lưu trữ các dữ kiện về địa chấn học, chu kỳ thuỷ triều và hải lưu vùng biển Đông.
Chung quanh Biệt Điện có nhiều loại bông hoa đua nhau nở rộ, màu sắc rực rở như chào đón chúa Xuân. Thêm vào đó, có nhiều cây cảnh, cành lá xum xuê, rất đẹp. Đặc biệt là loại cây hoa sứ, mùi thơm ngây ngất. Nhiều đàn chim se sẻ chiều tối tụ về tổ ấm trên những cành cây ca hót líu lo, đón chào mùa Xuân mới.
Hướng về thành phố Nha Trang, bên cạnh là phi trường, ánh điện muôn màu như ngàn sao lấp lánh vào những đêm trăng mùa hè, toả sáng cả một phương trời phố thị thân yêu đang bừng lên sức sống. Con đường Duy Tân với những cột điện bên đường ẩn hiện trong những hàng cây dương liễu cao vút, vươn mình theo gió, chạy dọc theo bờ biển hình bán nguyệt với bải cát trắng xoá, lung linh như những ánh sao rơi. Xa xa nhìn về phía Bắc hướng cầu Hà Ra và cầu Bóng của thành phố Nha Trang, nhiều chiếc thuyền nan ẩn hiện với những ánh đèn trên mui ghe chiếu sáng như báo hiệu một cuộc sống thái hoà.
Sau một đêm ứng chiến bình an, sáng thức dậy tâm hồn thật phơi phới. Tôi hít hơi thở thật sâu. Lồng ngực căng phồng, phổi tràn đầy không khí trong lành của gió biển vào Xuân trước vườn cây xanh tươi đâm chồi nở nhuỵ. Lòng mình khoan khoái biết bao hoà cùng với bướm lượn, hoa cười đón mừng chúa Xuân. Nàng Xuân đẹp quá, dễ thương quá, tôi thầm hát:
Nàng Xuân đến giáng Xuân diễm kiều thầm yêu ai đó
Nàng Xuân hởi với tôi hảy cùng cùng hoà tiếng tơ
Tôi đón Xuân với lòng thấm thiết
Tôi đón Xuân với niềm hân hoan
Tôi đón Xuân với tình bát ngát
Tôi với Xuân vô vàng niềm yêu
(Nhạc phẩm Nàng Xuân của Tôi của Nguyễn Hữu Thiết)
Vào buổi sáng tinh sương, sau khi hoàn thành nhiệm vụ ứng chiến, toán SVSQ chúng tôi trên đường từ Biệt Điện trở về quân trường gặp nhiều xe cộ chạy ngược chạy xuôi. Những khuôn mặt trai trẻ tràn đầy vui tươi, yêu đời trong những ngày đầu Xuân hiền hoà của miền Nam tự do.
Trước những cảnh tượng đó, trong tôi hiện lên niềm vui khôn tả và thoáng chốc những vần thơ xuất hiện. Tôi đã chọn 3 chữ đầu làm tựa đề cho bài thơ:
Xuân Thanh Bình nay về trên đất Mẹ
Ngàn đoá hoa đua nở đón Xuân sang
Màu Xuân tươi nhuỵ thắm cánh mai vàng
Cây cỏ ướm mầm non Xuân Dân Tộc
Xuân nay về không còn nghe tiếng khóc
Bom đạn thù gây chết chóc thê lương
Mẹ Việt Nam giòng lệ hết trào tuôn
Màu chinh chiến phai nhoà trong dĩ vãng
Gió Xuân về bầu trời xanh quang đãng
Dân tộc mình hạnh phúc đón Xuân sang
Xuân vui tươi rộn rã khắp thôn làng,
Nơi phố thị hồi sinh bừng sức sống !
(Nguyễn Văn Phảy
Xuân Quý Sửu 1973 tại Nha Trang)
Tâm trạng của tôi lúc bấy giờ tràn đầy niềm vui với mùa Xuân Thanh Bình hy vọng. Đó là mùa Xuân Quý Sửu 1973. Tôi luôn ước mong, tiếp nối sẽ là những mùa Xuân hiền hoà, Xuân an vui đến với quê hương và dân tộc Việt Nam. Đó là những mùa Xuân không chiến tranh, không bom đạn, không thù hằn, không tiếng khóc.
Nhưng rồi, những tháng ngày kế tiếp trôi qua. Tôi và bạn bè đã thất vọng về Hiệp định Đình chiến Paris 1973. Chiến sự vẫn tiếp tục. Tin tức cho biết, những đoàn xe tăng T54, súng đạn của Liên Xô, Tàu cộng và của khối cộng sản đông Âu, được tiếp tục chuyên chở vào miền Nam cùng những đoàn quân trai trẻ, gồm nhiều bộ đội cộng sản Bắc Việt chưa tròn 18 tuổi. Tất cả phục vụ chiến trường nhằm thực hiện âm mưu thôn tính miền Nam của quốc tế cộng sản.
Thế là theo thời gian, ước mơ hoà bình đều tan biến trong tôi và bạn bè. Khoá đào tạo Sĩ quan Hải quân Đệ Nhị Song Ngư của chúng tôi, ngày qua ngày vẫn được diễn ra như thường lệ.
Ngày 19.6.1973, để biểu diễn sức mạnh của Toàn Quân Dân VNCH, khoá chúng tôi lên đường về Sài Gòn để diễn hành mừng Ngày Quân Lực. Đó cũng là niềm tự hào của quân chủng Hải Quân chúng tôi.
Biệt Điện Bảo Đại tại Nha Trang
Vào một buổi chiều tối Xuân, tôi thuộc toán SVSQ đi ứng chiến tại Biệt Điện Bảo Đại nằm ở phía Nam thành phố Nha Trang gần trường Sĩ Quan Hải Quân, cách khoảng vài ba cây số. Biệt Điện được xây dựng trên ngọn đồi không cao lắm, đủ tầm nhìn ra khơi và hướng về phố thị. Nhìn ra biển, mặt nước xanh biếc. Cận bến bờ Cầu Đá là thương cảng Nha Trang, nơi đó chúng tôi có thể tập lái những chiếc ca-nô (yuyu), dùng để chở quân đổ bộ khi học về môn vận chuyển. Thấp thoáng những đợt sóng êm đềm lướt theo làn gió Xuân nhè nhẹ tạo thành những âm điệu rì rào rung cảm lòng người lữ thứ. Hướng về thương cảng, cách Biệt Điện khoảng 400 mét đường chim bay là Hải Học Viện Nha Trang được thành lập vào năm 1922. Từ năm 1969 Hải Học Viện trực thuộc Viện Đại Học Sài Gòn, là nơi lưu trữ các dữ kiện về địa chấn học, chu kỳ thuỷ triều và hải lưu vùng biển Đông.
Chung quanh Biệt Điện có nhiều loại bông hoa đua nhau nở rộ, màu sắc rực rở như chào đón chúa Xuân. Thêm vào đó, có nhiều cây cảnh, cành lá xum xuê, rất đẹp. Đặc biệt là loại cây hoa sứ, mùi thơm ngây ngất. Nhiều đàn chim se sẻ chiều tối tụ về tổ ấm trên những cành cây ca hót líu lo, đón chào mùa Xuân mới.
Hướng về thành phố Nha Trang, bên cạnh là phi trường, ánh điện muôn màu như ngàn sao lấp lánh vào những đêm trăng mùa hè, toả sáng cả một phương trời phố thị thân yêu đang bừng lên sức sống. Con đường Duy Tân với những cột điện bên đường ẩn hiện trong những hàng cây dương liễu cao vút, vươn mình theo gió, chạy dọc theo bờ biển hình bán nguyệt với bải cát trắng xoá, lung linh như những ánh sao rơi. Xa xa nhìn về phía Bắc hướng cầu Hà Ra và cầu Bóng của thành phố Nha Trang, nhiều chiếc thuyền nan ẩn hiện với những ánh đèn trên mui ghe chiếu sáng như báo hiệu một cuộc sống thái hoà.
Sau một đêm ứng chiến bình an, sáng thức dậy tâm hồn thật phơi phới. Tôi hít hơi thở thật sâu. Lồng ngực căng phồng, phổi tràn đầy không khí trong lành của gió biển vào Xuân trước vườn cây xanh tươi đâm chồi nở nhuỵ. Lòng mình khoan khoái biết bao hoà cùng với bướm lượn, hoa cười đón mừng chúa Xuân. Nàng Xuân đẹp quá, dễ thương quá, tôi thầm hát:
Nàng Xuân đến giáng Xuân diễm kiều thầm yêu ai đó
Nàng Xuân hởi với tôi hảy cùng cùng hoà tiếng tơ
Tôi đón Xuân với lòng thấm thiết
Tôi đón Xuân với niềm hân hoan
Tôi đón Xuân với tình bát ngát
Tôi với Xuân vô vàng niềm yêu
(Nhạc phẩm Nàng Xuân của Tôi của Nguyễn Hữu Thiết)
Vào buổi sáng tinh sương, sau khi hoàn thành nhiệm vụ ứng chiến, toán SVSQ chúng tôi trên đường từ Biệt Điện trở về quân trường gặp nhiều xe cộ chạy ngược chạy xuôi. Những khuôn mặt trai trẻ tràn đầy vui tươi, yêu đời trong những ngày đầu Xuân hiền hoà của miền Nam tự do.
Trước những cảnh tượng đó, trong tôi hiện lên niềm vui khôn tả và thoáng chốc những vần thơ xuất hiện. Tôi đã chọn 3 chữ đầu làm tựa đề cho bài thơ:
Xuân Thanh Bình nay về trên đất Mẹ
Ngàn đoá hoa đua nở đón Xuân sang
Màu Xuân tươi nhuỵ thắm cánh mai vàng
Cây cỏ ướm mầm non Xuân Dân Tộc
Xuân nay về không còn nghe tiếng khóc
Bom đạn thù gây chết chóc thê lương
Mẹ Việt Nam giòng lệ hết trào tuôn
Màu chinh chiến phai nhoà trong dĩ vãng
Gió Xuân về bầu trời xanh quang đãng
Dân tộc mình hạnh phúc đón Xuân sang
Xuân vui tươi rộn rã khắp thôn làng,
Nơi phố thị hồi sinh bừng sức sống !
(Nguyễn Văn Phảy
Xuân Quý Sửu 1973 tại Nha Trang)
Tâm trạng của tôi lúc bấy giờ tràn đầy niềm vui với mùa Xuân Thanh Bình hy vọng. Đó là mùa Xuân Quý Sửu 1973. Tôi luôn ước mong, tiếp nối sẽ là những mùa Xuân hiền hoà, Xuân an vui đến với quê hương và dân tộc Việt Nam. Đó là những mùa Xuân không chiến tranh, không bom đạn, không thù hằn, không tiếng khóc.
Nhưng rồi, những tháng ngày kế tiếp trôi qua. Tôi và bạn bè đã thất vọng về Hiệp định Đình chiến Paris 1973. Chiến sự vẫn tiếp tục. Tin tức cho biết, những đoàn xe tăng T54, súng đạn của Liên Xô, Tàu cộng và của khối cộng sản đông Âu, được tiếp tục chuyên chở vào miền Nam cùng những đoàn quân trai trẻ, gồm nhiều bộ đội cộng sản Bắc Việt chưa tròn 18 tuổi. Tất cả phục vụ chiến trường nhằm thực hiện âm mưu thôn tính miền Nam của quốc tế cộng sản.
Thế là theo thời gian, ước mơ hoà bình đều tan biến trong tôi và bạn bè. Khoá đào tạo Sĩ quan Hải quân Đệ Nhị Song Ngư của chúng tôi, ngày qua ngày vẫn được diễn ra như thường lệ.
Ngày 19.6.1973, để biểu diễn sức mạnh của Toàn Quân Dân VNCH, khoá chúng tôi lên đường về Sài Gòn để diễn hành mừng Ngày Quân Lực. Đó cũng là niềm tự hào của quân chủng Hải Quân chúng tôi.
Các
hình ảnh tàu chiến 2 bên.
Và
rồi, sau 2 năm dài học tập, tôi cùng với 279 bạn bè cùng trang lứa, là những
SVSQ với những năm dài thụ huấn hải nghiệp, đã chính thức tốt nghiệp với kỳ thi
khá khó khăn. Có một số SVSQ bị hỏng trong kỳ thi mãn khoá. Một buổi Lễ Tốt
Nghiệp được tổ chức rất trọng thể vào ngày 01.09.1973 tại Trung Tâm Huấn Luyện
Hải Quân Nha Trang với sự tham dự và chủ toạ của đại diện chính phủ VNCH cũng
như Đô Đốc Tư Lệnh Hải Quân và thân nhân của chúng tôi.
Rồi từ đó chúng tôi chính thức mang lon Hải Quân Thiếu uý (dấu hiệu Omega) trên vai. Sau 1 tuần lễ nghỉ phép, với trọng trách của một tân Sĩ Quan Hải Quân, khoá chúng tôi được tung đi tân đáo trên các chiến hạm, ở các đơn vị duyên hải và giang đoàn khắp mọi nẻo đường đất nước.
Tôi nằm trong danh sách 30 tân sĩ quan có số điểm thi tốt nghiệp cao nhất khoá, được đi thực tập tại Đệ Thất Hạm Đội Mỹ nên phải về Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân Sài Gòn để chuẩn bị Anh ngữ nên không được đi phép 1 tuần.
Mùa Xuân Giáp Dần - Hải Chiến Hoàng Sa 19.1.1974:
Thắm thoát gần 1 năm Hiệp định Paris được ký kết. Vào những ngày đầu năm 1974, với sự hợp tác của Trung cộng, cộng quân Bắc Việt đã gia tăng tấn công trên đất liền tại miền Nam để làm suy yếu lực lượng đối kháng của quân lực VNCH. Thừa cơ hội, Mao Trạch Đông chỉ thị cho Đặng Tiểu Bình để họp bàn với các cấp lãnh đạo nhằm thực hiện cuộc hành quân biển để tiến chiếm quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền Việt Nam. Trung cộng thành lập một lực lượng hải quân đặc nhiệm thật hùng hậu. Chúng chia làm 2 phân đội. Một phân đội tấn công đi trước gồm có 2 Liệp Tiềm Đỉnh (loại Hộ Tống Hạm) Kronstadt K271 và K274, 2 Tảo Lôi Hạm (loại Trục Lôi Hạm) 389 và 396 và 2 Liệp Tiềm Đỉnh khác là 281 và 282, cộng thêm những tàu đánh cá có vũ trang mang danh số 402 và 407… Một phân đội tiếp ứng khác theo sau cùng tiến ra quần đảo Hoàng Sa nhằm xâm lăng biển đảo của ta. Cuộc hành quân biển của Trung cộng do Phó Đô Đốc Phương Quang Kinh, Tư Lệnh Phó Hạm Đội Nam Hải Trung cộng chỉ huy.
Tổ lãnh đạo Trung cộng 6 người gồm Diệp Kiếm Anh, Đặng Tiểu Bình, Vương Hồng Văn, Trương Xuân Kiều, Trần Tích Liên, Tô Chấn Hoa. Đặng Tiểu Bình tuy là Phó nhưng lấn lướt luôn quyền của Thống Chế Diệp Kiếm Anh. Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai cũng tham gia điều động lực lượng.
Lúc bấy giờ Tuần Dương Hạm HQ16 của HQ VNCH đang tuần tra tại quần đảo Hoàng Sa biết được nhiều tàu chiến cũng như những tàu đánh cá được ngụy trang vũ khí của TC xâm nhập vào nhóm đảo Nguyệt Thiềm của quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền Việt Nam. Tức thì HQ16 báo cáo về Bộ Tư Lệnh Vùng 1 Duyên Hải (TLV1DH), lúc đó Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại là Tư Lệnh Vùng 1 Duyên Hải. Sau đó Bộ Tư Lệnh Hải Quân VNCH đã chỉ định HQ Đại tá Hà Văn Ngạc (K5-SQHQNT) đương kim Hải Đội Trưởng Hải đội 3 tăng phái cho Bộ Tư Lệnh Vùng 1 Duyên Hải. Lúc bấy giờ TLV1DH là Tư Lệnh chiến trường và là vị Chỉ huy Liên Đoàn Đặc Nhiệm gồm các chiến hạm đương nhiệm và tăng phái cho chiến dịch Hoàng Sa.
Khi Hải Quân Đại tá Hà văn Ngạc từ Sài Gòn ra đến Bộ TLV1DH thì Vị Tư Lệnh Vùng 1 Duyên Hải chỉ định Hải quân Đại tá Hà văn Ngạc làm Chỉ huy Trưởng Chiến Thuật cho chiến dịch bảo vệ biển đảo gồm có các chiến hạm sau đây:
- Khu Trục Hạm HQ4, Hạm trưởng là HQ Trung tá Vũ hữu San (K11-SQHQNT)
- Tuần Dương Hạm HQ5, Hạm trưởng là HQ Trung tá Phạm trọng Quỳnh (K11-SQHQNT). HQ5 là Soái Hạm (OTC: officer in tactical command) vì HQ Đại tá Hà văn Ngạc hiện diện trên đó để chỉ huy chiến dịch.
- Tuần Dương Hạm HQ16, Hạm trưởng là HQ Trung tá Lê văn Thự (K10-SQHQNT)
- Hộ Tống Hạm HQ10, Hạm trưởng là HQ Thiếu tá Nguỵ văn Thà (K12-SQHQNT).
Tình hình chiến sự thời điểm đó rất căng thẳng. Áp lực của cộng quân Bắc Việt trên đất liền ngày càng gia tăng. Hải quân VNCH phải được phân tán mỏng ở các vùng duyên hải để ngăn chận Việt cộng xâm nhập bằng đường biển vào bờ ở miền Nam. Nhưng với quyết tâm bảo vệ biển đảo, không thể để một tấc đất nào lọt vào tay giặc phương Bắc như các bậc tiền nhân căn dặn, Hải quân VNCH đã giáng cho Hải quân Trung cộng một trận quyết liệt gây tổn thất nặng nề cho TC từ khoảng 10:25 phút đến khoảng 11:10 phút ngày 19.01.1974 tức là ngày 27 tháng 12 năm Quý Sửu mặc dù lực lượng ta yếu kém hơn so với lực lượng HQ Trung cộng.
Rồi từ đó chúng tôi chính thức mang lon Hải Quân Thiếu uý (dấu hiệu Omega) trên vai. Sau 1 tuần lễ nghỉ phép, với trọng trách của một tân Sĩ Quan Hải Quân, khoá chúng tôi được tung đi tân đáo trên các chiến hạm, ở các đơn vị duyên hải và giang đoàn khắp mọi nẻo đường đất nước.
Tôi nằm trong danh sách 30 tân sĩ quan có số điểm thi tốt nghiệp cao nhất khoá, được đi thực tập tại Đệ Thất Hạm Đội Mỹ nên phải về Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân Sài Gòn để chuẩn bị Anh ngữ nên không được đi phép 1 tuần.
Mùa Xuân Giáp Dần - Hải Chiến Hoàng Sa 19.1.1974:
Thắm thoát gần 1 năm Hiệp định Paris được ký kết. Vào những ngày đầu năm 1974, với sự hợp tác của Trung cộng, cộng quân Bắc Việt đã gia tăng tấn công trên đất liền tại miền Nam để làm suy yếu lực lượng đối kháng của quân lực VNCH. Thừa cơ hội, Mao Trạch Đông chỉ thị cho Đặng Tiểu Bình để họp bàn với các cấp lãnh đạo nhằm thực hiện cuộc hành quân biển để tiến chiếm quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền Việt Nam. Trung cộng thành lập một lực lượng hải quân đặc nhiệm thật hùng hậu. Chúng chia làm 2 phân đội. Một phân đội tấn công đi trước gồm có 2 Liệp Tiềm Đỉnh (loại Hộ Tống Hạm) Kronstadt K271 và K274, 2 Tảo Lôi Hạm (loại Trục Lôi Hạm) 389 và 396 và 2 Liệp Tiềm Đỉnh khác là 281 và 282, cộng thêm những tàu đánh cá có vũ trang mang danh số 402 và 407… Một phân đội tiếp ứng khác theo sau cùng tiến ra quần đảo Hoàng Sa nhằm xâm lăng biển đảo của ta. Cuộc hành quân biển của Trung cộng do Phó Đô Đốc Phương Quang Kinh, Tư Lệnh Phó Hạm Đội Nam Hải Trung cộng chỉ huy.
Tổ lãnh đạo Trung cộng 6 người gồm Diệp Kiếm Anh, Đặng Tiểu Bình, Vương Hồng Văn, Trương Xuân Kiều, Trần Tích Liên, Tô Chấn Hoa. Đặng Tiểu Bình tuy là Phó nhưng lấn lướt luôn quyền của Thống Chế Diệp Kiếm Anh. Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai cũng tham gia điều động lực lượng.
Lúc bấy giờ Tuần Dương Hạm HQ16 của HQ VNCH đang tuần tra tại quần đảo Hoàng Sa biết được nhiều tàu chiến cũng như những tàu đánh cá được ngụy trang vũ khí của TC xâm nhập vào nhóm đảo Nguyệt Thiềm của quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền Việt Nam. Tức thì HQ16 báo cáo về Bộ Tư Lệnh Vùng 1 Duyên Hải (TLV1DH), lúc đó Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại là Tư Lệnh Vùng 1 Duyên Hải. Sau đó Bộ Tư Lệnh Hải Quân VNCH đã chỉ định HQ Đại tá Hà Văn Ngạc (K5-SQHQNT) đương kim Hải Đội Trưởng Hải đội 3 tăng phái cho Bộ Tư Lệnh Vùng 1 Duyên Hải. Lúc bấy giờ TLV1DH là Tư Lệnh chiến trường và là vị Chỉ huy Liên Đoàn Đặc Nhiệm gồm các chiến hạm đương nhiệm và tăng phái cho chiến dịch Hoàng Sa.
Khi Hải Quân Đại tá Hà văn Ngạc từ Sài Gòn ra đến Bộ TLV1DH thì Vị Tư Lệnh Vùng 1 Duyên Hải chỉ định Hải quân Đại tá Hà văn Ngạc làm Chỉ huy Trưởng Chiến Thuật cho chiến dịch bảo vệ biển đảo gồm có các chiến hạm sau đây:
- Khu Trục Hạm HQ4, Hạm trưởng là HQ Trung tá Vũ hữu San (K11-SQHQNT)
- Tuần Dương Hạm HQ5, Hạm trưởng là HQ Trung tá Phạm trọng Quỳnh (K11-SQHQNT). HQ5 là Soái Hạm (OTC: officer in tactical command) vì HQ Đại tá Hà văn Ngạc hiện diện trên đó để chỉ huy chiến dịch.
- Tuần Dương Hạm HQ16, Hạm trưởng là HQ Trung tá Lê văn Thự (K10-SQHQNT)
- Hộ Tống Hạm HQ10, Hạm trưởng là HQ Thiếu tá Nguỵ văn Thà (K12-SQHQNT).
Tình hình chiến sự thời điểm đó rất căng thẳng. Áp lực của cộng quân Bắc Việt trên đất liền ngày càng gia tăng. Hải quân VNCH phải được phân tán mỏng ở các vùng duyên hải để ngăn chận Việt cộng xâm nhập bằng đường biển vào bờ ở miền Nam. Nhưng với quyết tâm bảo vệ biển đảo, không thể để một tấc đất nào lọt vào tay giặc phương Bắc như các bậc tiền nhân căn dặn, Hải quân VNCH đã giáng cho Hải quân Trung cộng một trận quyết liệt gây tổn thất nặng nề cho TC từ khoảng 10:25 phút đến khoảng 11:10 phút ngày 19.01.1974 tức là ngày 27 tháng 12 năm Quý Sửu mặc dù lực lượng ta yếu kém hơn so với lực lượng HQ Trung cộng.
Các
hình ảnh tàu chiến 2 bên.
Trong
thời gian từ ngày 16.1.1974 đến 18.4.1974, có lần Khu Trục Hạm HQ4 ủi đụng tàu
đánh cá TC mang số 407 được vũ trang khi chúng chạy chận đầu HQ4 để khiêu
khích.
Trong trận hải chiến 19.1.1974, tôi có 6 người bạn cùng khoá Đệ Nhị Song Ngư Sĩ Quan Hải Quân Nha Trang hiện diện trên các chiến hạm. Tôi cũng được nghe các bạn bè hiện đang định cư tại hải ngoại đã tham dự trận Hải Chiến Hoàng Sa kể lại một số chi tiết về trận chiến.
Để đối đầu với lực lượng Hải quân TC, lực lượng ta được phân chia trách nhiệm như sau:
- HQ16 >< T396
- HQ10 >< T389
- HQ 4 >< K271
- HQ 5 >< K274
Theo như lời người bạn cùng khoá, HQ Thiếu uý Nguyễn Văn Quý trên HQ5 kể cho tôi nghe khi tôi qua Hoa Kỳ thăm viếng năm 2005 cũng như bạn cùng khoá Nguyễn Hoà Nguyên liên lạc với bạn Quý vào đầu năm nay đã ghi lại như sau:
“… HQ5 từ Vũng Tàu ra đến Hoàng Sa buổi chiều 18.1.1974. Biển Hoàng Sa lúc đó đang ở vào mùa biển một, biển phẳng lặng, êm, rất êm! HQ5 tức khắc nhập đoàn cùng với HQ4 và HQ16 đang có mặt tại chỗ, cả 3 chiến hạm vào nhiệm sở tác chiến, lập đội hình "biểu dương lực lượng". Các tàu Trung cộng thoạt đầu nhìn thấy đội hình các tàu của ta thì họ chạy dạt ra xa, e dè quan sát. Chỉ một lúc sau đó, họ cũng lập đội hình "biểu diễn giỡn mặt". Các tàu Trung cộng nhỏ hơn nhưng chạy nhanh hơn, chúng chạy lượn quanh, chạy chận đầu các chiến hạm của ta. Phía hữu hạm HQ5, có một chiếc tàu Trung cộng chạy xé sóng, đâm tới nguy hiểm, khi còn cách khoảng 100 mét thì nó thình lình đổi hướng chạy song song với HQ5. Trên tàu, lính Trung cộng cởi trần, múa may, chỉ trỏ, la ó khiêu khích, khiến các chiến sĩ của ta thấy vui rồi nổi nóng. Một trận đấu võ miệng hai bên, từ trên xuống dưới, mạnh ai nấy chưởi, tiếng Việt và tiếng Tàu bằng loa và bằng mồm đã diễn ra…”
(còn tiếp kỳ 2)
Nguyễn Văn Phảy
Trong trận hải chiến 19.1.1974, tôi có 6 người bạn cùng khoá Đệ Nhị Song Ngư Sĩ Quan Hải Quân Nha Trang hiện diện trên các chiến hạm. Tôi cũng được nghe các bạn bè hiện đang định cư tại hải ngoại đã tham dự trận Hải Chiến Hoàng Sa kể lại một số chi tiết về trận chiến.
Để đối đầu với lực lượng Hải quân TC, lực lượng ta được phân chia trách nhiệm như sau:
- HQ16 >< T396
- HQ10 >< T389
- HQ 4 >< K271
- HQ 5 >< K274
Theo như lời người bạn cùng khoá, HQ Thiếu uý Nguyễn Văn Quý trên HQ5 kể cho tôi nghe khi tôi qua Hoa Kỳ thăm viếng năm 2005 cũng như bạn cùng khoá Nguyễn Hoà Nguyên liên lạc với bạn Quý vào đầu năm nay đã ghi lại như sau:
“… HQ5 từ Vũng Tàu ra đến Hoàng Sa buổi chiều 18.1.1974. Biển Hoàng Sa lúc đó đang ở vào mùa biển một, biển phẳng lặng, êm, rất êm! HQ5 tức khắc nhập đoàn cùng với HQ4 và HQ16 đang có mặt tại chỗ, cả 3 chiến hạm vào nhiệm sở tác chiến, lập đội hình "biểu dương lực lượng". Các tàu Trung cộng thoạt đầu nhìn thấy đội hình các tàu của ta thì họ chạy dạt ra xa, e dè quan sát. Chỉ một lúc sau đó, họ cũng lập đội hình "biểu diễn giỡn mặt". Các tàu Trung cộng nhỏ hơn nhưng chạy nhanh hơn, chúng chạy lượn quanh, chạy chận đầu các chiến hạm của ta. Phía hữu hạm HQ5, có một chiếc tàu Trung cộng chạy xé sóng, đâm tới nguy hiểm, khi còn cách khoảng 100 mét thì nó thình lình đổi hướng chạy song song với HQ5. Trên tàu, lính Trung cộng cởi trần, múa may, chỉ trỏ, la ó khiêu khích, khiến các chiến sĩ của ta thấy vui rồi nổi nóng. Một trận đấu võ miệng hai bên, từ trên xuống dưới, mạnh ai nấy chưởi, tiếng Việt và tiếng Tàu bằng loa và bằng mồm đã diễn ra…”
(còn tiếp kỳ 2)
Nguyễn Văn Phảy
No comments:
Post a Comment