From: <mai565@
Date: 2013/4/7
Subject: Đá Nát Vàng Phai -
To:
Date: 2013/4/7
Subject: Đá Nát Vàng Phai -
To:
Tiến sĩ Văn Chương Pháp mà viết văn chương tiếng Việt thật
tuyệt vời.
Đọc KT, hồi ức về các trại tù Hoang Lien Sơn, Vĩnh Phú với nỗi
nhục nhắn của các tù binh vẫn như trước mắt, vẫn làm rơi nước mắt.
Nữ tu Marie-Amélie khuyên: Tha Thứ, tha thứ, tha thứ?? Chỉ là thử
thách??
Cho đến bây giờ, VN càng ngày càng tồi tệ, khũng khiếp hơn
dưới ách CS, thì hận thù này càng phải nhớ chứ không thể nào quên. MN
----------Original Message----------
From: Julien Bui
Date: Apr 7, 2013 1:54:17 PM
Subject: Fw: Đá Nát Vàng Phai
To:
Nghe tin Nhóm đồng hương tại Virginia đề nghị,
và được chính quyền tiểu bang chấp thuận, cho đổi "Ngày Quốc Hận"
thành "Ngày Việt Nam", tôi giận quá, và thay vì chửi thề (sẽ làm
sau), tôi xin gửi trước cho quý bằng hữu đọc một bài viết đã cũ về mối hận thù
thiên thu đối với Việt Cộng. NLGO
ĐÁ NÁT VÀNG PHAI
Thẹn mình đá nát vàng
phai (Kiều)
kim thanh
Giữa năm 1976, từ trại Long Giao, Nguyễn bị đưa
ra Bắc, cùng với các thành phần "ác ôn, có nợ máu" gồm An Ninh,
Tình Báo, Chiến Tranh Chính Trị, Bộ Binh, Cảnh Sát, Tuyên Úy –toàn thứ dữ dằn
dưới mắt Việt Cộng. Gần ba ngàn người bị xếp như cá hộp dưới hai khoang hầm tàu
chở than, nguyên là của Việt Nam Thương Tín được cải danh Sông Hương. Ai ở đâu
là chết dí chỗ đấy, tiểu tiện phải bước qua những thân người nằm rũ liệt, nghe
chửi thề inh ỏi khi lỡ đạp lên bụng một ông khó tính, mới đến được cái thùng gỗ
nhỏ đặt ở cầu thang. Nước uống và lương khô được thòng dây xuống, y như cảnh
trong một phim buôn bán nô lệ đã xem đâu rồi. Hai ngày sau cập bến Hải Phòng.
Xe lửa và molotova bít bùng dàn chào sẵn để
rước về các vùng biên giới, như Yên Bái, Lao Kay... Bạn bè lạc nhau từ
đây. Nguyễn đi Hoàng Liên Sơn. Cửa toa đóng kín, khiến hai ông trung tá chết
ngộp, xác vứt bên đường. Ngồi xe hơi thì bị trẻ con ném đá, và những bà già Bắc
kỳ tốc váy chửi rủa tục tằn, với sự đồng lõa của bọn cán bộ.
Hoàng
Liên Sơn với rặng Fansipan trùng điệp. Những ngày vào rừng, lên núi đốn tre,
chặt gỗ, giơ tay vóc từng nắm sương la đà dày đục, nếm thử thấy tê buốt –như
môi hôn phút chia lìa vội vã. Những đêm lạnh cóng phải đứng ngủ cho bớt run rẩy
trong chiếc chăn đơn cũ mục. Trên đường lao động, Nguyễn gặp lại bằng hữu thất
tán từ các chiến trường xưa, không hẹn mà bị "gom bi" đầy đủ. Nhìn
nhau cười như mếu, thấm thía lời huênh hoang của một tên cán bộ: "Các anh
có mà chạy đằng giời!" Thỉnh thoảng lên núi Nguyễn và đồng tổ đội gặp một
nhóm Biệt Kích, bị bắt từ thời Tổng thống Ngô Đình Diệm, đang lao động tự giác,
không có vệ binh canh giữ. Họ nhìn đám tân tù binh, vẻ thương hại, lắc đầu
thông cảm, nhưng cũng có anh không dằn được bực tức, lớn giọng: “ĐM, mấy cha
làm ăn, đánh đấm thế nào mà bây giờ kéo nhau ra đây cả lũ?” "Cả lũ"
im lặng, xấu hổ, nghe xót xa bởi lời trách móc không sai. Nói thế, nhưng khi
thấy bọn Nguyễn lóng cóng không buộc chặt nổi bó nứa, họ ùa đến ân cần phụ
giúp, hướng dẫn tận tình, hoặc chia cho sắn luộc và bánh in khô Trung quốc.
Sức
khỏe suy sụp dần. Sau một lần khiêng gỗ té xỉu giữa đường, Nguyễn được chuyển
vào đội Rau Xanh, gồm toàn bô lão –còn gọi là đội "sứt cán gãy gọng."
Vì còn trẻ và tạm lành lặn, chàng bị nhường ngay chức trưởng tổ phân, ngày ngày
phải hốt đủ mười chuyến phân bắc, tức phân người, "có chất lượng"
giao cho tổ khác đem ủ thẳng dưới các luống khoai, hoặc chế biến thành nước
tưới rau. Lúc đầu thấy hãi hùng, muốn nôn oẹ, rồi ráng nhập thiền để mất đi cảm
giác, ý niệm, nhìn nhưng chẳng biết đó là gì nữa. Hết phân bắc đến phân chuồng
(trâu bò), cũng tởm không kém, rồi phân xanh (lá ngâm mục).
Mới đầu, đa số còn phát biểu linh tinh lắm. Hệ thống ăng ten chưa được thiết lập qui mô. Trong đội Rau Xanh có ông Đại úy Cảnh sát già gân Hoàng Bá Linh. Ông Linh là người Quảng Bình, hay Quảng Trị, trực tánh, ưa kể chuyện tiếu lâm và chuyện chế độ cũ, nói năng rất “phản động”, thuộc loại điếc không sợ súng. Trong một buổi học tập của đội, ông đã phát biểu, lên án “bọn CTCT ngụy” như sau: “Bọn ngụy tuyên truyền rất bố láo bố lếu về Bác Hồ vĩ đại, vô vàn kính yêu của ta, ví dụ họ nói nguyên văn như ri, tổ cha thằng già Hồ Chí Minh là tên giết người bán nước, làm tay sai cho thằng Xịt Ta Lin và thằng Mao Xếnh Xáng... Họ xuyên tạc bộ đội anh hùng của ta nguyên văn như ri, là chúng nó ốm đói quá, bảy thằng Việt Cộng đu một cọng đu đủ mà không gãy... Thật là mất dạy hết sức!”, v.v... Và cứ thế ông nói dai, nói dài, nói lớn “nguyên văn như ri, như ri”, với giọng nặng trịch, nhừa nhựa thuốc lào. Tất cả sĩ quan cải tạo xanh mặt, cản không được, ngồi im, lo lắng cho ông. Phải hơn hai phút sau thằng cán bộ quản giáo mới hiểu ra, lên tiếng cắt ngang, hầm hầm quát bảo ông im ngay. Nó ức lắm, nhưng lúc ấy vì quá bất ngờ chưa biết kết ông vào tội gì. Hôm sau, ông bị dẫn đi “làm việc” khá lâu, rồi bị biệt giam một tháng. Ra khỏi phòng biệt giam, ông tiếp tục mở máy, như cũ, cười hề hề: “Tui đâu ngán thằng mô”.
Mới đầu, đa số còn phát biểu linh tinh lắm. Hệ thống ăng ten chưa được thiết lập qui mô. Trong đội Rau Xanh có ông Đại úy Cảnh sát già gân Hoàng Bá Linh. Ông Linh là người Quảng Bình, hay Quảng Trị, trực tánh, ưa kể chuyện tiếu lâm và chuyện chế độ cũ, nói năng rất “phản động”, thuộc loại điếc không sợ súng. Trong một buổi học tập của đội, ông đã phát biểu, lên án “bọn CTCT ngụy” như sau: “Bọn ngụy tuyên truyền rất bố láo bố lếu về Bác Hồ vĩ đại, vô vàn kính yêu của ta, ví dụ họ nói nguyên văn như ri, tổ cha thằng già Hồ Chí Minh là tên giết người bán nước, làm tay sai cho thằng Xịt Ta Lin và thằng Mao Xếnh Xáng... Họ xuyên tạc bộ đội anh hùng của ta nguyên văn như ri, là chúng nó ốm đói quá, bảy thằng Việt Cộng đu một cọng đu đủ mà không gãy... Thật là mất dạy hết sức!”, v.v... Và cứ thế ông nói dai, nói dài, nói lớn “nguyên văn như ri, như ri”, với giọng nặng trịch, nhừa nhựa thuốc lào. Tất cả sĩ quan cải tạo xanh mặt, cản không được, ngồi im, lo lắng cho ông. Phải hơn hai phút sau thằng cán bộ quản giáo mới hiểu ra, lên tiếng cắt ngang, hầm hầm quát bảo ông im ngay. Nó ức lắm, nhưng lúc ấy vì quá bất ngờ chưa biết kết ông vào tội gì. Hôm sau, ông bị dẫn đi “làm việc” khá lâu, rồi bị biệt giam một tháng. Ra khỏi phòng biệt giam, ông tiếp tục mở máy, như cũ, cười hề hề: “Tui đâu ngán thằng mô”.
Sau tám tháng, cả trại bị “biên chế” đi Sơn La, ở chung với tù hình sự, loại "đầu gấu" chuyên giết người, hiếp dâm, trộm cướp. Một vùng đèo heo hút gió, nước độc rừng thiêng, gần Điện Biên Phủ, qua hết dãy núi cao là sang đất Lào. Quanh năm chỉ thấy mây trời lơ lửng và đám người Mán, người Mèo tiếng nói líu lo, mỗi lần xuống núi mặc áo quần sặc sỡ, đàn ông thổi kèn mở đường, đàn bà gồng gánh theo sau. Cùng trại có các linh mục, cảnh sát, sĩ quan đủ binh chủng, vài nhà văn quân đội như, Nguyễn chỉ còn nhớ, Thảo Trường, Văn Quang và Phan Lạc Phúc. Có nhị vị cựu và đương kim Đại tá Linh mục Tuyên úy Lê Trung Thịnh và Đinh Cao Thuấn. Nguyễn nằm kế bên Trung tá Đặng Bình Minh, phi đoàn trưởng trực thăng của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, mùa đông được anh cho một áo jacket nhà binh rằn ri cũ. Cách Nguyễn hai người là Trung tá Vũ Hoài Đức, chỉ huy phó trường ĐH/CTCT, người hiền lành, đạo đức y như Đại tá Chỉ huy trưởng Nguyễn Quốc Quỳnh. Ở một đội khác có một cựu tùy viên của cố Tổng thống Ngô Đình Diệm, đeo kính trắng, tôi quên tên. Ai nấy thiếu ăn, xác xơ, bắt đầu thấm đòn độc của Việt Cộng: chủ trương cải tạo bao tử, nghĩa là bắt đói triền miên, để chế ngự ý chí, và cả tư cách nữa! Lao động vinh quang là trồng lúa, sắn, ngô, khoai trên những thửa đất hoang, khô cằn sỏi đá.
Hơn hai năm sau, Trung Cộng uy hiếp biên giới, Việt Cộng lo sợ, vội vàng chuyển tất cả về Vĩnh Phú mà chúng gọi là miền trung du, đất tổ Hùng Vương. Hùng Vương đâu chả biết, chỉ thấy toàn núi rừng thâm u và bộ mặt kinh niên hắc ám của các cai tù, và những thằng Ăng Ten, Trật Tự, Thi Đua ngu ngốc làm khổ đồng đội còn hơn chính kẻ thù. Trại rộng thênh thang chia làm bảy khu, gọi là K, cách nhau trung bình năm, sáu cây số, nằm tít phía sau thung lũng sông Hồng. Từ Sài Gòn ra Vĩnh Phú thăm chồng, các bà "vợ ngụy" xem như chặng đường thánh giá mới, phải vượt rừng băng sông, đi đủ các loại xe, kể cả xe trâu và xe đạp ôm. K7 gần nhất, giam riêng các biệt kích. Ở giữa, một K dành cho các thiếu niên phạm pháp, đa số về tội ăn cắp –có đứa chỉ mới tám tuổi. Nguyễn ở K1, xa nhất, tuốt sâu trong núi.
Tại
Vĩnh Phú, có anh bạn trường Đại Học CTCT Đà Lạt, Nguyễn Ngọc Nhung, Đại úy
phòng Khảo Hạch, kiếm đâu ra được chức thủ kho dụng cụ lao động, cũng nhàn. Một
hôm, Nhung kể, một tên công an vẻ phách lối đến mượn cái xẻng. Theo thủ tục
phải ghi tên vào sổ. Thủ kho, người Bắc, lịch sự hỏi:
- Xin
cán bộ cho biết quý danh.
Tên
nọ không hiểu "quý danh", há mồm, ngơ ngác, suy nghĩ một hồi, rồi đột
nhiên sừng sộ:
- Anh vi phạm lội qui. Ai cho anh lói tiếng
lước ngoài hử?
Nhung sửng sốt, á khẩu. May phước, nhờ các
bạn tù xúm vào thông dịch giùm, anh mới thoát nạn, sau khi bị xỉ vả tận tình.
- Giờ lày mà còn ôm chân đế quốc, lói tiếng nóng...
- Giờ lày mà còn ôm chân đế quốc, lói tiếng nóng...
Còn Nguyễn về đội Nông Nghiệp. Phải lội vào
một thửa ruộng bỏ hoang từ bao đời để luân phiên kéo cày thay cho trâu bò. Nước
bùn đen đặc quánh, đỉa bơi lổn ngổn, thò chân xuống thấy ghê rợn –làm chàng nhớ
những đầm lầy cũng kinh khiếp dưới địa ngục mà thi hào Dante phải vượt qua với
Virgile, trong La divina Commedia. Ba hôm sau, một số đội viên –có Ðại úy Cảnh sát Phạm Bá Ðiềm, bạn thân từ
Sơn La– lên cơn sốt cấp tính, chỉ hai ngày là hôn mê, rồi chết. Người sống sót
rụng dần lông chân. Phải mất thêm vài mạng nữa, đội mới có lệnh "giải
thể."
Thửa ruộng lại bị bỏ hoang, Nguyễn trở về đội
Rau Xanh, như hồi ở Hoàng Liên Sơn, lại vào tổ phân, lần này giao cho thợ bón
kiêm chuyên viên tưới là phi công Air Vietnam Nguyễn Hữu Trí, trung tá biệt
phái. Nói chuyện mới biết Trí bay đường Hồng Kông và Tokyo, có chuyến với Bội
Trân, em gái Nguyễn, mà anh tả đúng hình dáng, nên chàng tin lắm. Chim bằng gãy
cánh, Trí tiếc nhớ trời xanh, giờ giải lao ngước nhìn lên cao, uất ức, thở dài.
Tết đầu tiên tại Vĩnh Phú, trại được nghỉ lao động ba ngày, và tự do đi lại các khu vực. Nguyễn tìm đến dãy nhà giam riêng "bò lục" (tiếng lóng chỉ đại tá) để thăm Ðại tá Nguyễn Quốc Quỳnh, vị chỉ huy trưởng kính thương của trường Ðại Học Chiến Tranh Chính Trị Ðà Lạt –nơi mà chàng được phục vụ gần ba năm trong chức vụ Trưởng khoa Nhân Văn Xã Hội và Sĩ quan Phụ khảo cho đến ngày tan hàng. Nguyễn thấy ông cũng vừa bước ra sân, nơi đang diễn nhiều trò vui do tù sáng chế để giết thời gian và nỗi nhớ nhà. Ông nhận ra chàng ngay. Chung quanh rất đông người, và dĩ nhiên ăng-ten được rải đầy. Gặp ông, chàng mừng quá, nói lớn:
Tết đầu tiên tại Vĩnh Phú, trại được nghỉ lao động ba ngày, và tự do đi lại các khu vực. Nguyễn tìm đến dãy nhà giam riêng "bò lục" (tiếng lóng chỉ đại tá) để thăm Ðại tá Nguyễn Quốc Quỳnh, vị chỉ huy trưởng kính thương của trường Ðại Học Chiến Tranh Chính Trị Ðà Lạt –nơi mà chàng được phục vụ gần ba năm trong chức vụ Trưởng khoa Nhân Văn Xã Hội và Sĩ quan Phụ khảo cho đến ngày tan hàng. Nguyễn thấy ông cũng vừa bước ra sân, nơi đang diễn nhiều trò vui do tù sáng chế để giết thời gian và nỗi nhớ nhà. Ông nhận ra chàng ngay. Chung quanh rất đông người, và dĩ nhiên ăng-ten được rải đầy. Gặp ông, chàng mừng quá, nói lớn:
- Chào bác, bác vẫn khỏe chứ ạ?
Ông nắm tay chàng một lúc lâu, và chậm rãi
nói, giọng xúc động:
- Cám ơn anh, tôi vẫn khỏe. Còn anh thế nào,
có bệnh hoạn gì không? Tôi biết anh ở đây lâu rồi, mà không gặp được.
Nguyễn
cố nuốt những giọt lệ làm nghẹn cổ họng, xót thương cho phận vàng phai và đá
nát. Cho đất nước bất hạnh. Cho cả chính mình. Hồn bỗng rưng rưng, thầm gọi tên
một thời yêu thương và thù hận tưởng đã chết theo cùng với mùa xuân tang tóc và
những giấc mơ phai. Một thời vì ông chợt hiện về nguyên vẹn. Như mới hôm qua...
Sài Gòn, đầu tháng 5, 1975. Hai ngày sau khi
đứng nhìn từ một góc đường Lê Văn Duyệt, uất hận và nước mắt lưng tròng, những
chiếc xe tăng chở đầy Cộng quân vào thủ đô, nghe tên nằm vùng Trịnh Công Sơn
hớn hở ca mừng chiến thắng, kêu gọi nối vòng tay lớn, và chạy tới chạy lui dò
la tin tức người thân, bạn bè ai còn ai thoát, tôi tìm được địa chỉ của Đại tá
Nguyễn Quốc Quỳnh và đạp xe đến thăm cùng với hai cựu SVSQ khóa 4, Nguyễn Gia
Hưng và Nguyễn Dự, bất ngờ gặp lại trên đường. Phu nhân và cô con gái, vì quen
mặt hồi ở Ðà Lạt, tiếp tôi không e dè. Ðại tá Quỳnh ra phòng khách, áo sơ mi bỏ
trong quần tây, chân đi săng đan. Trông ông mệt mỏi, có vẻ chán nản, dù bề ngoài
vẫn giữ phong cách nho nhã, lịch sự cố hữu. Chúng tôi không nói gì nhiều. Có lẽ
trước thảm họa chung ai cũng có nỗi ưu tư riêng, cùng nặng nề như nhau. Suốt ba
hôm liền, tôi bị hối hận dày vò, tự trách đã vụng suy, khí khái hão, không nghe
lời cô em tiếp viên đưa gia đình lên chuyến Air Vietnam cuối cùng, khiến tất cả
đành phải ở lại, một số dắt díu nhau trở về Nha Trang để thấy cửa nhà, tài sản
rơi vào tay bọn cách mạng 30 –hạng khố rách áo ôm trước kia đã chịu ơn ba mẹ
tôi, nay trở mặt, gán lên đầu ông bà đủ thứ tội. Còn Ðại tá Quỳnh, tôi không
biết ông đang tiếc gì, nghĩ gì, vì suốt buổi chỉ nghe ông lặp đi lặp lại:
- Không thể ngờ nhanh như thế!
Ðâu phải một mình ông. Không ai ngờ, kể cả Dương Văn
Minh, tên tướng thiếu tài, khờ dại, được sinh ra chỉ để phản bội, và bọn
"hàng thần lơ láo" tại dinh Ðộc Lập trưa ngày 30/4. Kể cả lũ vượn
người khoác lác ở Bắc bộ phủ. Kể cả tên đồng minh Kissinger xảo quyệt, tác giả
của cái gọi là hiệp định Paris quái gở bán đứng miền Nam, người được báo chí Mỹ
bơm lên như nhà ngoại giao vĩ đại, nhưng thực chất chỉ là một tên trí thức cơ
hội chủ nghĩa và đầy ảo tưởng, chưa tiêu hóa kịp những bài học bang giao quốc
tế ở trường Harvard. Kể cả anh tướng hai sao và ba hoa nọ đã thề thốt ở lại để
ăn mắm tôm cà pháo với đồng bào, vậy mà vào phút chót nhờ có trực thăng riêng
mới vọt ra được hạm đội Mỹ. Không thể ngờ nhanh như thế! Tôi chỉ biết gật
đầu, đồng ý với ông. Cuối cùng, tôi cất tiếng hỏi:
- Ðại tá có ý định sẽ làm gì ?
Ông lưỡng lự vài giây, rồi trả lời:
- Tôi chưa biết sẽ phải làm gì. Nhưng ở hoàn
cảnh nào tôi cũng chấp nhận những gì tệ hại nhất sẽ xảy đến cho tôi.
Như là mặt trái của bổn phận và vinh quang,
tôi hiểu như thế qua những lời chậm rãi, đắn đo của ông. Những lời tôi nghe
quen từ đâu rồi bỗng mang một ý nghĩa cao đẹp, phi thường trong bối cảnh bấy
giờ. Những lời đã theo tôi suốt tám năm đày ải, và cùng với hình ảnh của
Guillaumet, viên phi công lâm nạn lầm lũi bước lê trên cát sa mạc, không chịu
ngồi chờ chết, trong “Terre des hommes” của Saint-Exupéry học lúc trẻ, đã khích
lệ, vực tôi đứng dậy để tiếp tục sống còn. Tôi cảm động, và khi từ biệt, siết
chặt tay ông, khẽ nói:
- Có một điều Ðại tá nên chắc chắn là dù ngày
mai ra sao tôi sẽ không bao giờ quên Ðại tá và những gì Ðại tá đã làm cho tất cả chúng tôi.
Và cho riêng tôi. Ông là một chỉ huy trưởng
nhân hậu, có đức có tài, hơn ai hết, đã làm tôi thấy yêu thích và kiêu hãnh với
đời quân ngũ bất đắc dĩ. Một chỉ huy trưởng quả cảm và xứng đáng, có tinh thần
trách nhiệm cao độ –quyết ở lại với thuộc cấp cho đến phút cuối, mặc dù ông có
một người con rể là đại tá không quân Mỹ và đủ phương tiện để tẩu thoát một
mình như đám tướng tá tham sinh úy tử kia đã tranh nhau đào ngũ trước khi tai
họa giáng xuống. Quả vậy, chín giờ sáng 30/4, tại Tiểu đoàn 50 CTCT, đường Phan
Ðình Phùng, bấy giờ là bộ chỉ huy tiền phương của trường Ðại học CTCT, ông vẫn
chỉ thị các sĩ quan hiện diện và sinh viên sĩ quan các khóa tiếp tục chiến đấu
và phòng thủ, để rồi, cuối cùng, phải buông súng, bất lực trước mệnh nước. Tôi
không bao giờ quên được khẩu lệnh cuối cùng, ngắn ngủi, thật buồn bã của ông
cho ban tham mưu, sau khi Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng:
- Phát hết lương khô và cho anh em tan hàng!
... Thế rồi, mỗi người chia một nẻo. Ông cũng
đi trình diện "cải
tạo" ở một nơi nào đó. Tôi bị tống vào Long Giao để gặp lại gần
toàn bộ sĩ quan Ðại Học CTCT, trong số có người bạn thân, Đại úy Đỗ Huy Hoàng,
chủ bút tờ Ức Trai của trường. Những chiều lao động về rảnh rỗi, tôi mò sang
đội của Hoàng, hoặc Hoàng sang tôi, để tâm sự vụn cho bớt nhớ nhà. Nhất là bớt
tức. Có cái gì uẩn ức, hằn học nằm trong tiềm thức của mỗi tên tù. Đau xót và
căm giận còn hơn bị tình phụ. Nhưng không biết tức ai. Lãnh đạo hèn nhát đã cao
bay xa chạy. Thù hận Cộng Sản thì chẳng ai dám hé môi nói với ai. Cuối cùng,
chỉ có Thượng Đế nghe đủ những lời ta thán, chửi thề vu vơ. Trong câu chuyện,
chúng tôi điểm mặt từng người quen, và khi biết toàn trường vào tù, cả hai cùng
thở dài, ngán ngẩm. Tôi còn gượng chọc Hoàng:
- Ức Trai hay Ức Gái gì rồi cũng chui vô rọ
hết!
Tại Long Giao, lúc ấy, tôi ở cùng đội, cùng tổ
với Đặng Phùng Hậu, bác sĩ trưởng bệnh xá trường Đại Học CTCT, và một nhóm quân
y. Cả tổ, vì tự ái, tự trọng, không ai than vãn về chuyện ăn uống, đói khát
trong tù, kể cả sau này khi viết hồi ký. Hậu vui tính, kể đủ chuyện, nhờ vậy
những ngày ảm đạm, bực bội qua khá nhanh. Mỗi tối, Hậu thì thầm nói chuyện với
tôi về thời cuộc, và lần nào anh cũng lẩm bẩm kết thúc bằng câu:
- Địt cụ, đau như hoạn, tức như bò đá!
Bên dãy cấp tá có Lê Ân, thiếu tá văn hóa vụ
trưởng của trường. Những lần thấy nhau qua hàng rào kẽm gai, ông lộ vẻ mừng rỡ,
rồi lắc đầu nói, giọng Quảng lai Huế rất ”trademark” của ông:
- Cháng gướm (chán gớm)!
Trong câu chuyện, anh em thường hỏi về Ðại tá
Chỉ huy trưởng. Không ai biết chính xác ông ở đâu. Có tin ông đã chết. Hoặc
đang ở ngoại quốc. Hoặc trốn trong một khu rừng. Nhiều đêm trằn trọc, tôi khổ
tâm vì dĩ vãng, cứ ám ảnh mãi, như cuốn phim quay lại, tự động, chậm chạp, lê
thê. Nhớ không sót từng khuôn mặt, từng buổi giảng dạy, từng dịp lễ. Nhớ từng
đêm Giáng sinh giá buốt và tiếng chuông nhà thờ ngân nga, từng buổi dạ vũ tưng
bừng, mệt nhoài, từng con phố chìm trong sương mờ che khuất đường về...
Bây giờ Đại tá Quỳnh đứng đó, bên Nguyễn, giữa một ngày xuân héo hon. Người
gầy nhom, gương mặt hốc hác, má trũng sâu. Nhìn lại hình hài mình, chàng thấy
đâu hơn gì. Chỉ một thoáng mơ, bỗng hiện về trong đáy hồn rời rã cả khung trời
yêu thương Ðà Lạt và kỷ niệm rực rỡ của tháng ngày cũ có hạnh phúc còn thơm
hương mimosa, có tình yêu chưa biết nói lời phản trắc, có một Ðại tá Quỳnh uy
nghi trong quân phục đại lễ gắn cấp hiệu cho sinh viên các khóa, nay còn đâu!
Mới có bốn năm vật đổi sao dời mà cả hai đã trở thành thảm hại đến thế ư? Ông
mặc bộ treillis bạc màu, chân đi dép râu, sau lưng viết chữ Quỳnh thật
to bằng mực tím. Thấy không ai để ý Nguyễn bèn hỏi rất khẽ:
- Ðại tá nghĩ sẽ có ngày về không?
Ông lấy tay che một bên tai, có vẻ chú ý lắm
mới nghe lọt hết. Và trả lời nhanh, chắc ngại bọn ăng-ten cứ lượn qua lượn lại
trước mặt:
- Tôi nghĩ là rất khó lòng, mặc dù vẫn cố hy
vọng. Ðiều quan trọng là anh gắng giữ gìn sức khỏe tốt để có sức chịu đựng. Gặp
anh em khác cho tôi gửi lời thăm!
Một thằng sà tới. Nguyễn vội nói lớn:
- Bác được thư gia đình thường chứ?
Ðại tá Quỳnh chưa kịp đáp thì hắn đã gay gắt
bảo Nguyễn, giọng trọ trẹ:
- Tôi lưu ý anh, không được quan hệ với các
anh đại tá.
Chàng phản pháo liền:
- Nhưng anh là ai? Hôm nay ngày Tết được
miễn!
Thằng nọ mặt hầm hầm, lớn tiếng:
- Tôi ở trong ban Trật Tự. Ðề nghị (tiếng
Việt Cộng có nghĩa "yêu cầu") anh chấm dứt quan hệ linh tinh.
Chàng quay sang Ðại tá Quỳnh :
-Thôi xin từ giã bác, chúc bác mạnh khỏe,
bình an trong năm mới.
Rồi nhìn thẳng mặt thằng Trật Tự, giận dữ bỏ
đi. Nguyễn gặp Ðại tá Quỳnh được một tháng thì hai đội bò lục –đội trưởng là Lê
Ðình Luân và Dương Hiếu Nghĩa– chuyển xuống K5, cách đó độ sáu cây số, cùng với
các linh mục tuyên úy mà bọn Công an đặc biệt căm thù.
Rồi một hôm, mẹ tôi lặn lội đến thăm, có Bội
Trân hộ tống. Lần đầu được phép, sau năm năm chờ đợi. Mất ba ngày đường trên
hai chuyến xe lửa từ Nha Trang ra Hà Nội, từ Hà Nội lên Ấm Thượng. Qua sông
Hồng bằng phà máy, tới K1 bằng xe trâu. Tại nhà tiếp tân, lúc đó khá đông
người, ba mẹ con ôm nhau khóc, rồi nói cười, mừng mừng tủi tủi, trước những cặp
mắt cú vọ của lũ vệ binh và quản giáo. Mẹ thút thít, xoa nắn hai cánh tay và
ngực tôi, như lúc nhỏ tôi từ Sài Gòn về quê Nha Trang nghỉ hè, chê con gầy quá,
tội con quá! Mẹ bạc gần nửa mái đầu, da sạm nắng, tay nổi gân xanh. Suốt năm,
Bội Trân nói, mẹ đi thăm nuôi "mệt nghỉ" rồi lo tìm đường cho con
vượt biên, làm sao mà không già yếu cho được. Ba ông con trai lớn và một chàng
rể tương lai đi cải tạo bốn nơi khác nhau, cô con gái út bị bắt ngay trên ghe
nhỏ, giam tại A30. Chưa đứa nào thoát được, mẹ tiếp lời, trừ Thể Trân ra riêng,
vì cả nhà bị chúng nó theo dõi sát nút.
Bội Trân đẹp như trước kia, nổi bật giữa phòng
tiếp, dù thôi trang điểm. Nhưng tóc cài hờ hững, mắt buồn vời vợi, mất hết vẻ
hồn nhiên, tinh nghịch cố hữu, khiến tôi ngậm ngùi tưởng đến những mỹ nhân tự
thuở xưa hương sắc không phai giữa gió đời vùi dập, kiêu sa trước nghịch cảnh,
như các nhân vật nữ trong những vở kịch cổ Hy Lạp. Em kể, và mẹ lắng nghe,
thỉnh thoảng gật gật đầu, phụ họa:
- Nhà mình tịch thu được chúng nó trả một nửa,
nửa kia làm trụ sở thanh niên phường. Ba làm rẫy, mẹ lén nấu rượu chuối cho
ba uống thay Martel. Em phụ bán nước mía với em Huyền Trân. Chị Thể Trân đến
được Mã Lai với chồng con. Chị vẫn nhắc chuyện anh cho cậu em chồng hai quả
trứng vịt lộn trong kỳ thi ở trường Chiến Tranh Chính Trị và ông Ðại tá chỉ huy
trưởng hiền từ của anh. Chị nói anh ngang tàng, đôi lúc chị tức anh lắm, nhưng
vẫn thương anh, hơn bất cứ ai, bởi anh là mẫu người của đàn ông, có chết cũng
không than van, cầu khẩn, lúc nào cũng hào hùng, kiêu hãnh, giống như con chó
sói bị thương trong bài "La mort du loup" của Vigny mình học năm nào
đó... Anh nhớ không, hồi nhỏ, một lần anh đánh lộn với mấy thằng lối xóm chuyên
chận đường chọc ghẹo tụi em, bị chảy máu mũi, mắt sưng vù, mà anh vẫn cắn răng
chịu đau, không khóc, lại còn bị ba mắng cho nữa...
Tôi lắc đầu, cười buồn. Ôi, xa rồi kỷ niệm,
nhắc làm chi hỡi em? Và đổi đề tài:
- Kha bây giờ ra sao? Có khoẻ không em?
Kha là hôn phu của Bội Trân, phi công A37,
dưới tôi hai lớp tại Jean-Jacques Rousseau. Sắp cưới thì mất nước. Vì Bội Trân ở lại, Kha cũng không đi.
Nghe tôi hỏi, Bội Trân chớp mắt, buồn rầu nhìn
ra sân. Bầu trời thấp, đục, giăng mây xám, như sắp đổ mưa. Gió rừng tuôn qua
vách nứa ngập gian nhà trống trải, không cửa, lạnh từng cơn. Em thì thầm:
- Mẹ và em đã ghé thăm Kha ở Hà Nam Ninh trên
đường lên anh đây. Cũng tàn úa, như anh, như mọi người, sức khỏe giảm sút
nhiều... Em sẽ chờ anh ấy, bao lâu cũng được.
Tôi quay sang mẹ, bùi ngùi nói:
- Tất cả đều do lỗi của con. Phải chi ngày đó
con biết nghe lời em đưa gia đình...
Mẹ ngắt lời:
- Cả nước đều lầm, đâu phải riêng con. Chuyện
cũ, thôi đừng nghĩ đến nữa.
Bội Trân tiếp:
- Nhưng có thế này em mới được về "phục viên" ở hẳn với ba
mẹ chứ! Em vẫn thương anh và hãnh diện vì anh.
Mẹ và em nói đủ thứ chuyện, nhưng không đề cập
đến một tin tôi chờ mà ngại không dám hỏi. Dường như hiểu ý, lúc mẹ quay qua
tiếp một bà đồng hành ngồi cùng bàn, Bội Trân nắm bàn tay tôi, siết chặt, và
khẽ nói:
- Lệ Ngà đã lấy chồng. Hai năm sau khi anh ra
đi. Em đâu ngờ!
Tự dưng tôi buột miệng, không chút mỉa mai:
- Hai năm là còn khá thủy chung đấy chứ em!
Tôi tưởng sẽ phải đứng tim, ngất xỉu. Nhưng lạ
quá, chỉ thấy buốt nhói một chút như kim châm. Có lẽ vì đã chuẩn bị đón nhận sự
thật quá lâu, từ năm năm rồi. Một thiên thu. Chợt nhớ một anh bạn Thiết giáp
vừa vào Long Giao mấy tháng đã nhận được thư vợ xin anh cho phép "bước thêm một bước nữa" và
ký vào tờ đơn ly dị và giấy nhường tài sản kèm theo, và cả đời tôi không quên
được giọng cười khinh bạc của anh sau khi viết trả lời: "Nhất trí.
Cho cô hết. Nhưng khuyên cô không nên bước, mà nên chạy cho nó nhanh." Tôi
không được như anh ta. Bởi vô vàn kỷ niệm ngát hương ngày mới yêu ùa về, thay
nhau vỡ như bong bóng. Lệ Ngà. Bạn học thân thiết của Bội Trân. Tà áo thiên
thanh và dòng tóc buông lơi trong nắng sớm phi trường Liên Khương, những lần em
bay lên gặp anh. Lệ Ngà. Những chiều đi dưới mưa lất phất qua những đồi thông,
em hát nho nhỏ bài “Le jour où la pluie viendra... Ngày mà mưa đến, sẽ có bao
nhiêu là giọt kim cương cho tình ta...” Những ly rượu Bordeaux sóng sánh ngọt
lịm môi em trong quán L’eau Vive và bản "Appassionata" trên
phím dương cầm thánh thót như từng giọt lệ rơi, thiết tha như lời tuyệt vọng
gọi người tình về. Những vòng tay cuống quýt tìm nhau trong hoàng hôn tím trên
đồi Cù. Những lời thề nguyền yêu đương cho đến lúc đầu bạc răng long. Lệ Ngà.
Hạnh phúc dối gian và ảo vọng phù du. Tôi nhắm mắt giây lâu, nghe vị đắng và
cơn giận thấm dần xương tủy. Và thở dài nhè nhẹ, nhìn Bội Trân không nói. Ðâu
phải tình cờ em nhắc đến con chó sói bị thương, cùng đường, của Vigny.
Em tiếp, giọng buồn rưng rưng:
- Không hiểu sao Ngà biết em sắp đi thăm anh.
Ðến gặp em, lần đầu tiên sau mấy năm biệt tích. Em không nỡ đuổi. Khóc suốt
buổi, nhưng không nói một lời gì về anh. Khi chia tay, chị ta nhờ em trao anh
những phong chocolat Meunier mà chị ta nói ngày xưa anh rất thích, và cho em
một số tiền làm lộ phí, nhưng dĩ nhiên em không nhận gì hết... Em biết tính anh
quá mà!
Tôi nói cám ơn em. Rồi cả hai im lặng, đuổi
theo ý nghĩ riêng...
Hai giờ trôi qua mau. Tên cán bộ vén tay áo
xem đồng hồ, bảo tất cả chuẩn bị ra về, vác quà vào trại. Khi ôm hôn tôi từ
biệt, lợi dụng tiếng ồn ào, Bội Trân nói một hơi, thật nhanh, qua màn lệ, bằng
tiếng Pháp:
- Ba dặn anh đừng tin bọn Cộng sản, đừng khai
thật, khai sao lặp lại y như vậy, đừng tin các phong trào phục quốc, tất cả đều
là cạm bẫy của Việt Cộng. Em nghe đài VOA và BBC nói các nghị sĩ, dân biểu Mỹ,
và cả thế giới đang quan tâm đến số phận của các anh. Ðừng tuyệt vọng nghe anh.
Nhớ đọc kinh, cầu nguyện nhiều xin Chúa và Ðức Mẹ che chở. Cả nhà chờ anh đó.
Em thương anh. Em thương anh.
Mẹ và em về hơn hai tháng, Nguyễn được chỉ định vào đội Xây Dựng, có nhiệm vụ cất nhà ở cho tù, heo, và cán bộ, và bắc cầu qua suối cho dân. Lúc đầu chàng phụ tá cho Lưu Ninh, Thiếu tá Bộ Binh, trong tổ vữa (trộn hồ), và sau khi Ninh qua “khâu” lợp chàng được thăng chức tổ trưởng, và tổ phó là Ðào Văn Bảnh, Trung tá Bộ Tổng Tham Mưu. Bảnh tính tình điềm đạm, cởi mở, sau trở thành một trong những bạn tù thân thiết nhất. Không có tổ viên. Suốt ngày hai tên hì hục trộn hàng đống vữa lớn, nhỏ, để sẵn, chờ một toán đem xe cải tiến, do ông nhà báo Việt Tấn Xã Đinh Phụng Tiến chỉ huy, đến xúc giao cho các thợ xây. Trong đội, nằm cạnh chàng, có Ðại đức Nguyễn Long, quê Quảng Ngãi, lo nấu nước, làm tạp dịch. Ông hiền lành, thật thà, ưa giúp đỡ mọi người. Nhiều đêm, vài anh nổi hứng, oang oang kể chuyện đàn bà con gái, chơi bời trước kia. Ông cũng bị nghe, và lần nào cũng lầm rầm bên tai Nguyễn:
Mẹ và em về hơn hai tháng, Nguyễn được chỉ định vào đội Xây Dựng, có nhiệm vụ cất nhà ở cho tù, heo, và cán bộ, và bắc cầu qua suối cho dân. Lúc đầu chàng phụ tá cho Lưu Ninh, Thiếu tá Bộ Binh, trong tổ vữa (trộn hồ), và sau khi Ninh qua “khâu” lợp chàng được thăng chức tổ trưởng, và tổ phó là Ðào Văn Bảnh, Trung tá Bộ Tổng Tham Mưu. Bảnh tính tình điềm đạm, cởi mở, sau trở thành một trong những bạn tù thân thiết nhất. Không có tổ viên. Suốt ngày hai tên hì hục trộn hàng đống vữa lớn, nhỏ, để sẵn, chờ một toán đem xe cải tiến, do ông nhà báo Việt Tấn Xã Đinh Phụng Tiến chỉ huy, đến xúc giao cho các thợ xây. Trong đội, nằm cạnh chàng, có Ðại đức Nguyễn Long, quê Quảng Ngãi, lo nấu nước, làm tạp dịch. Ông hiền lành, thật thà, ưa giúp đỡ mọi người. Nhiều đêm, vài anh nổi hứng, oang oang kể chuyện đàn bà con gái, chơi bời trước kia. Ông cũng bị nghe, và lần nào cũng lầm rầm bên tai Nguyễn:
- Mô Phật! Chơi chi mà chơi dữ rứa hè!
Bữa nọ, một bà già khu gia binh cho đội một
con chó con vừa chết. Một anh gốc Hố Nai xung phong trổ tài nấu rựa mận với
muối, rau muống, và củ riềng –mọc đầy bên vệ đường. Mỗi người được chia hai
miếng bằng ngón chân cái. Ai cũng "hồ hởi" ăn, trừ Ðại đức Long. Ông
đi tìm Nguyễn, cho phần của ông, mặc dù quanh năm ai cũng thiếu chất thịt và
ông chưa được thăm nuôi. Ông nói:
- Tôi còn tu. Anh ăn giùm cho!
Một hôm, đội được điều động làm công tác
"đột xuất" (bất ngờ) là ra "nghĩa địa", tức một bãi đất
trống sát chân núi, làm cỏ và cắm mộ bia cho các anh em đã nằm xuống. Nguyễn
đếm gần hai trăm mộ –kỳ thực chỉ là những nấm đất vùi sơ với mảnh gỗ nhỏ
ghi vội tên người chết. Trong số có vài ông tỉnh trưởng, trung đoàn trưởng. Có
Trung tá Nguyễn Văn Năm, thuộc trường Ðại học CTCT, người hiền như Bụt, nổi
tiếng về khoa bói toán, bấm độn, và một người quen biết từ trại Sơn La, Trung
tá Ðặng Bình Minh –cả hai trúng nắng cùng một lúc ngoài hiện trường lao động,
được chở về trại cùng trong một chiếc xe trâu, hôn mê và qua đời cùng một giờ.
Anh em kể, vợ phi công Minh, một dược sĩ trẻ đẹp, mới thăm anh vài ngày trước,
từ Hà Nội trở lại thăm tiếp khi anh vừa mất, được dẫn ra nghĩa địa, khóc như
mưa, rồi cắt tóc để lại trên mộ cùng với một bài thơ. Nguyễn vừa giẫy cỏ vừa
thầm khấn các anh phù hộ cho tất cả tai qua nạn khỏi và mau về sum họp với gia
đình. Và thắc mắc không hiểu sao bữa nay bọn cai tù lại tử tế như vậy. Thì ra,
về sau mới biết, có một phái đoàn cao cấp đến thăm trại.
Cuối năm 1980, cả đội của Nguyễn được điều động đến K5 xây hội trường và khu
gia binh cho công an. Tại đây, Nguyễn rất mừng được thấy lại Ðại tá Nguyễn Quốc
Quỳnh, mỗi buổi sáng tập họp. Kỳ này, trông ông đỡ tiều tụy. Tết 1981, mẹ chàng
và Bội Trân ra Vĩnh Phú lần thứ hai, với Huyền Trân, cô em út xinh đẹp vừa tròn
mười tám. Chàng soạn một ít bánh mì khô, đường và mì gói, mấy viên thuốc cảm,
bỏ vào một bọc ni-lông, chờ buổi chiều các đội đi tắm suối chung lẻn đến phía
các "bò lục", gặp Ðại tá Quỳnh trao cho ông, nói:
- Tôi mới được thăm, xin biếu Ðại tá.
Hai tháng sau, đến lượt ông được thăm, và một
buổi sáng Nguyễn đang đánh vữa thì đội của ông đi ngang. Ông gật đầu ra dấu cho
chàng đến sát hàng rào kẽm gai và dúi vào tay một gói lương khô đủ loại. Thằng
vệ binh thấy được, chạy tới khám.
Không có thư từ, mật hiệu, nó trả lại, mồm càu nhàu:
- Quà với cáp linh tinh!
Lúc này, tổ vữa làm việc gần bếp và giếng
nước cơ quan. Một hôm, một trung sĩ công an còn trẻ, lạ hoắc, lén vệ binh, đến
gần, run run hỏi nhỏ:
- Các anh có B6, cho tôi xin một ít. Nhà tôi
mới sinh bị phù (thủng) nặng.
Việc xảy ra đột ngột, Nguyễn và Bảnh đưa mắt
nhìn nhau, không đáp, sợ bị gài bẫy. Anh ta vội tiếp:
- Nói thật đấy mà! Không tin, các anh cứ vào
đây xem.
Suy nghĩ một hồi, Nguyễn đánh liều đi theo
anh ta, còn Bảnh ở lại canh chừng đống vữa và tên vệ binh. Vào nhà, thấy chị vợ
da mét xanh, mặt mày, tay chân sưng húp, nằm bên đứa con đỏ hỏn, bé như con
chuột. Chị ta nói thuốc bệnh xá cấp thiếu, và không có thức ăn bổ dưỡng.
Hai anh chàng phân vân mãi. Ðối tượng giúp đỡ
phải là bạn tù chứ, của đâu mà lo cho Công an! Nhưng hầu hết anh em đều đã được
thăm nuôi, hoặc nếu chưa, đã được Bảnh, Nguyễn và bạn bè chia sẻ phần nào rồi.
Cuối cùng, động lòng trắc ẩn, cả hai góp lại được chừng bốn mươi viên B6 để
dành từ các lần tiếp tế, đã quá hạn, nhưng không còn gì hơn, và một hộp sữa đậc
cho đứa bé, đem giấu dưới một gốc cây, làm hiệu cho anh ta đến lấy. Hai tuần
sau, một buổi trưa, chị vợ đang nấu bếp cơ quan thấy hai chàng thợ vữa đến, vội
tiến ra, nhìn trước nhìn sau, bảo:
- Cảm ơn hai anh, hôm nay em đã đỡ nhiều. Có
xuất cơm trắng và miếng thịt trâu bồi dưỡng em mang cho hai anh ở gốc cây kia.
Nhớ xem chừng cán bộ bảo vệ, kẻo em bị kiểm điểm...
Rồi từ đội Xây Dựng, Nguyễn được Linh mục Trần
Thanh Cao, giỏi nhạc, đẹp trai, vui tính, có quen biết ngoài đời, bốc về đội
văn nghệ mới thành lập do ông làm đội trưởng, để tỵ nạn lao động vài tháng, mặc
dù chàng dốt đặc về ca nhạc kịch. Nhân tài, cũng cỡ chàng, biệt phái từ các
đội. Có ba anh giả ba sơn nữ Phà Ca mang gùi, đeo vòng, lắc lư múa theo bài Tiếng
chày trên sóc Bom Bo, trông xa, và vì vắng đàn bà lâu ngày, thấy cũng hấp
dẫn không thua Thanh Nga. Có tổ cải lương với đầy đủ vai hề, đào thương, kép
độc. Ðội được lệnh trình diễn giúp vui một phái đoàn thanh tra trung ương. Cha
Cao cho Nguyễn vào ban hợp xướng, bè alto ngang phè phè. Ông khuyến
khích các ca viên:
- Ăn sắn và hút thuốc lào mà hát như vậy là
được rồi!
Một hôm, trại phó đến thăm. Ban hát đang tập
một bài có nhắc tên Hồ Chí Minh và hang Pắc Pó, hay ao sen, ao cá gì đó, do cha
Cao đặt hòa âm thành bốn bè, mỗi bè tập riêng. Hắn chăm chú nghe, vui vẻ, rồi
bỗng nhăn mặt, gọi cha Cao lại, giận dữ quát:
- Anh bôi bác Cách mạng đấy phỏng? Tên Bác
kính yêu như thế mà... mà anh dám đổi nà Hô, Hố,
Hộ, Hổ như thế thì... thì nà anh
nếu náo thật!
Cha phân trần, nhưng hắn gạt đi:
- Bỏ, bỏ tất! Bè với không bè!
Lần khác, hắn đến xem tập kịch. Hắn lại nhăn
mặt, lại gọi cha Cao, chỉ tay về phía ông trung tá nhà văn trọng tuổi, bút danh
Ký giả Lô Răng, đóng vai một cán bộ huyện. Nguyễn đứng gần cha Cao, nghe hắn
bảo:
- Thay anh kia cho tôi! Cán bộ cách mạng chúng tôi không bao giờ đi chân thọt!
Anh có ý đồ phải không?
Cha Cao ngẩn người ra, cứng họng. Bấy giờ,
Nguyễn mới nhìn kỹ ông kịch sĩ xui xẻo. Quả thật, chân bước của ông hơi khập
khiễng.
Văn nghệ xong, đội giải tán trong sự tiếc
nuối của các nghệ sĩ bất đắc dĩ. Cha Cao đi trồng mía. Nguyễn bị hoàn trả về
đội xây, đánh vữa trở lại với Ðào văn Bảnh.
Bất ngờ, lại bị “biên chế” nữa. Các sĩ quan cấp tá và tuyên úy một sáng sớm
phải lên đường di chuyển về một nơi nào không rõ. Nguyễn ngồi trong hàng nhìn
theo bóng Ðại tá Quỳnh và bạn bè, có cả Ðại đức Long và cha Cao, lầm lũi bước
lên xe, mang theo những túi tư trang gọn nhẹ, như chính cuộc đời trống vắng,
buồn tênh của đám tù nhân. Lần đó, chàng nghĩ khó còn gặp lại nhau, và tự dưng
lòng nao nao như mất người thân thuộc.
Năm
sau, đội Xây Dựng được trở về K1. Mỗi tối, khi cửa buồng giam đóng lại, từng
nhóm tụm năm tụm ba nhỏ to nói chuyện, đánh cờ, uống nước trà, hoặc bàn luận
thời cuộc từ những tin tức hiếm hoi, thường phóng đại, do các bà thăm nuôi cung
cấp. Thời gian này, Nguyễn được nhóm thân hữu đặt biệt danh "bình
luận gia tin tức quốc tế". Một cách thành thật, tự tin, chàng phân tích
theo chiều hướng có lợi, hợp với ước vọng của mọi người, trong khi thực tế có
lẽ khác xa. Bọn cán bộ hình như về sau cũng muốn thả lỏng, miễn đừng ai phá
phách, trốn trại, trốn lao động, hoặc công khai "phản động". Những
giàn ăng-ten bị bứng hết, và anh em có thể phát biểu vung vít, thoải mái, trong
nội bộ từng nhóm. Bảy năm rồi còn gì! Ðau khổ đã thành thói quen. Nhớ vợ thương
con cũng đã chìm sâu vào tận cuối hồn. Không còn những anh đêm khuya khóc rưng
rức trong chăn của thời gian đầu xa gia đình êm ấm. Trái tim hóa thành đá hết
rồi. Giờ đây, phản kháng, dưới hình thức nào đó, bùng lên từ sự chịu đựng câm
nín dồn ép qua nhiều năm. Có người khai bệnh nghỉ lao động dài dài. Hoặc giả
khùng chửi xéo chế độ. Hoặc còn đập cả vệ binh hỗn láo để rồi, dĩ nhiên, bị
biệt giam và hành hạ dã man. Nguyễn bắt đầu để râu, làm tên quản giáo Vinh –nói
ngọng, chữ tr thành t, chữ l thành n–
rất ngứa mắt, bắt kiểm điểm, nên thấy hắn từ xa chàng lánh mặt.
Trong buồng giam có một anh chuyên
"chiếu phim", tức kể chuyện, thật hay và duyên dáng. Tối đến, tù nhân
bu quanh, thay nhau rót trà, mời kẹo, đấm lưng cho anh ta, để được nghe kể đủ
thứ chuyện, từ Cô gái Ðồ Long đến La valse dans l’ombre qua Thần điêu đại hiệp. Một
anh nữa, Trung úy Phạm Hữu Lý, xuất thân trường Ðại học CTCT, hát nhạc vàng rất
mùi. Suốt một đêm giao thừa, Lý ca một hơi hơn một chục bản tình lâm ly, như Chiều mưa biên giới anh đi về đâu hoặc Xuân này nếu con không
về, chắc mẹ buồn lắm, làm ai nấy mắt cay sè, muốn khóc. Bọn vệ binh gác cửa, đa số là thanh niên
mới lớn, nghệt cổ ra nghe, thậm chí còn bảo "anh lào đó hát
nại" vài câu...
Ðại tá Nguyễn Quốc Quỳnh và hầu hết các nhân vật trong "truyện" này kẻ trước người sau đã đến bến bờ tự do. Từ Rose City, thỉnh thoảng tôi gọi ông hay viết thư thăm hỏi. Đại úy Hoàng Bá Linh, Thiếu tá Lê Ân, Trung tá Đào Văn Bảnh đã mất sau khi ra khỏi tù, trong những hoàn cảnh khác nhau. Phi công Nguyễn Hữu Trí không rõ trôi dạt phương nào, cũng như cha Trần Thanh Cao và thầy Nguyễn Long.
Mẹ tôi, đã ngoài tám mươi, vẫn còn nơi quê
nhà, ở với Huyền Trân và chồng con. Ba tôi mất, không được gặp mặt. Những người
em
"cải tạo" về, lần lượt định cư tại các nước, trừ Kha chết
trong tù. Bội Trân ở vậy, không yêu ai nữa, đúng theo lời thề hứa, trước khi
trở thành một nữ tu dòng kín, giữa tuổi thanh xuân, làm nhiều con tim tan nát.
Lệ Ngà yên ngủ giấc ngàn thu, sau một cơn bạo bệnh, trả hết cho dương gian những
si mê và tình yêu mật đắng. Còn tôi, sau bao năm vật vã để vá lại mảnh đời rách
mướp, đã bắt tay được với hạnh phúc –nhỏ nhoi so với nỗi đau ngút ngàn phải
trải qua. Nhưng hồn vẫn chơi vơi theo kỷ niệm chỉ chực òa vỡ mỗi lần ở đầu dây
tiếng mẹ và em từ bên trời cũ, hoặc Ðại tá Quỳnh từ Florida, vang lên.
Nữ tu Marie-Amélie Bội Trân nhắc Nguyễn nên tha thứ, tha thứ, tha thứ, và nói tất cả chỉ là thử thách Chúa đã gửi đến. Nhưng đối với bạo quyền Việt Cộng, chàng nói, làm sao tha thứ cho được? Ðó là một bọn người gian manh, độc tài, chuyên chế, đã dìm cả đất nước vào cảnh lầm than, đói khổ, qua ba mươi năm, và bây giờ lại còn đốn mạt dâng đất, dâng biển cho quan thầy Trung Cộng, mối họa muôn đời của dân tộc. Hận thù, Nguyễn sẽ không bao giờ quên, mặc ai phỉnh gạt, kêu gào hòa giải hòa hợp. Vì chàng vẫn tin –theo như lời viên đại tướng tổng tài La Mã nói với Ben-Hur lúc còn là một tù nhân chèo thuyền (galérien) trong phim cùng tên, Ben-Hur– rằng hận thù cho sức mạnh, làm ta sống còn ■
Portland, cho Mùa Quốc
Hận 2013
viết lần đầu năm 2005, một năm trước ngày mẹ mất (tại Nha Trang,
7/2006)
No comments:
Post a Comment