VƯỢT THOÁT
Hạo
Nhiên Nguyễn Tấn Ích
Tù
chuyển trại trên những chiếc xe GMC bịt bùng, dù rất kín đáo, nhưng dân chúng
hai bên quốc lộ vẫn phát hiện được đoàn xe chở tù. Nhìn qua khe hở của tấm bạt
phủ xe, tù nhân nhìn thấy hai cụ gìa giậm chân la khóc, tay vẫy vẫy về hướng
đoàn xe khiến cho anh em tù xúc động rơi nước mắt. Vài chiếc honda rượt theo cố
lượm những mảnh giấy nhắn tin của tù thả rơi đang cuộn bay trong bụi đường. Tù
hy vọng những tờ giấy nhắn tin ấy sẽ đến tay thân nhân của họ ở tận các vùng
Kinh tế mới xa xôi.
Nhà
tù mới, nằm sâu trong khu rừng già. Trại được xây dựng kiên cố. Tường thành bằng
gạch xi măng bọc quanh khu nhà giam. Tường cao trên hai mét, đầu tường cơi thêm
ba đường dây kẽm gai. Phòng giam mái ngói, vách gạch, một cửa ra vào và bốn
khung cửa sổ nhỏ. Sáu mươi tù nhân chen chúc trong một diện tích chưa đầy tám
mươi mét vuông. Mỗi người có năm tấc bề ngang chia đều trên hai dãy sạp bằng
thân cây nứa đập dập.
Chính
sách giam giữ tù chính trị không thời hạn lại đặt vào thành phần nguy hiểm của
chế độ. Lối hành xử của công an là trút hận thù bằng những ngón đòn vô cùng tàn
độc. Bản nội quy là sợi dây trói chặt tù không còn cựa quậy, khắc nghiệt hơn cả
thời Bắc thuộc.Tù xây nhà giam để nhốt mình, lao động sản xuất đủ mọi ngành nghề
để nuôi sống bản thân và nuôi cán bộ cả nước.
Trong
sản xuất, chúng buộc tù phải tăng chỉ tiêu tối đa. Ngược lại, tiêu chuẩn phần
ăn hạ mức tối thiểu đến tàn nhẫn. Không cho tù ăn no. Những người từng ở tù qua
bốn chế độ: Pháp, Nhật, Quốc gia và Cộng sản, đã so sánh và khẳng quyết rằng:
Không có nhà tù nào vô nhân đạo bằng nhà tù Cộng sản. Ðói, lạnh, lao động khổ
sai và đàn áp tinh thần là bốn biện pháp giết người tối độc. Ðức quốc xã tiêu
diệt dân Do thái tại lò hỏa thiêu bằng hơi ngạt, Cộng Sản tiêu diệt tù chính trị
bằng cách tiêu hao sinh lực lần mòn. Cái chết đến từ từ, kéo dài sự đau đớn triền
miên. Không chết vì mất sức, bệnh tật trong trại giam,cũng chết vì bệnh nan y
sau khi ra khỏi tù.
Một
cái Tết thứ tư trong tù ngắn ngủi vô vị xói mòn niềm hi vọng được trở về với
gia đình. Cái mốc thời gian ngồi tù mù mù tăm tăm! “Lao động tốt, cải tạo tiến
bộ”là tiêu chuẩn để xét duyệt tha tù, chẳng khác gì bức tranh vẽ cánh đồng cỏ
nhử trước mắt loài ngựa nức lòng đi tới.
Qua
Tết, trại bắt đầu khởi công xây chiếc cầu treo nối liền hai bờ sông Côn. Cầu
dài gần trăm mét. Vật liệu phần lớn do tù tự chế và góp nhặt. Người đứng ra vẽ
kiểu và thiết kế cây cầu là tù nhân Trần Xuân Lộc, một cựu sĩ quan Công binh đã
từng tu nghiệp tại Hoa Kỳ.
Sáu
tháng ròng rã, Lộc miệt mài trong công việc. Anh phơi nắng dầm mưa, xông xáo từ nơi này đến
nơi khác cùng với một toán tù được tuyển chọn gồm những tay chuyên môn thuộc
các ngành liên hệ. Họ làm việc không ngơi nghỉ nhưng thích thú và tự hào. Niềm
vui trong công tác này là Lộc được phục vụ cho người dân địa phương đã mong ước
bao đời nay có một cây cầu để qua lại con sông trong mùa nước lũ. Cuối cùng, công trình
hoàn tất mỹ mãn.
Chiếc
cầu treo trông khá đẹp mắt và nên thơ. Nổi bật trên hai môi cầu là bốn trụ vươn
cao bằng những thanh sắt đường rầy xe lửa ghép đôi làm điểm tựa cho hai đường
dây cáp bằng thép giăng qua sông. Từ xa, trông chiếc cầu duyên dáng như một cây
đàn dây. Cầu đứng sừng sững, hiên ngang vượt qua dòng nước cuồn cuộn chảy.
Ngày
khánh thành có cả đại biểu cấp Quân khu và Tỉnh về tham dự cùng với đồng bào địa
phương. Ban giám thị trại nhận bằng tuyên dương đã thực hiện thành công tốt đẹp
công trình có phẩm chất cao. Người ta chẳng đá động gì đến công lao của người đứng
ra lãnh trách nhiệm như một Công trình sư. Từ bản vẽ thiết kế đến điều hành đều
do một tay Trần Xuân Lộc.
Trong
buổi lễ, Lộc ngồi trong đám tù
khổ sai với chiếc áo rách tả tơi. Chiếc áo mà anh vẫn mặc hàng ngày suốt thời
gian xây dựng cây cầu dưới mưa nắng. Kẻ bất tài; cướp công được vinh danh cười
rạng rỡ. Buồn thay cho thân phận Lộc, anh chỉ là một tù nhân!
o 0 o
Thời
tiết đã qua khỏi ngày Ðông chí. Cơn mưa dầm dứt hẳn. Bầu trời quang đãng. Những
lọn mây trắng bắt đầu bay lơ lửng trên đỉnh rừng già. Mặt trời đi trốn suốt mùa
Ðông cũng trở về mang ánh nắng vàng vọt rải đều trên đồi nương ngọn cỏ,. Nắng bị
khuất phục bởi khối lạnh cắt da đang ngự trị trong miền thung lũng. Màu nắng trở
nên yếu ớt xanh xao vàng vọt như màu da bệnh hoạn của đám tù đang phơi mình dưới
ánh nắng đầu mùa. Những khuôn mặt trắng bệch thũng nước và thân hình vẹo vọ với
làn da nhăn nheo bày ra đầy đủ những góc cạnh, xương xẩu trên thân thể con người.
Nhìn vào những bộ xương cách trí ấy, không một ai có thể ngờ rằng trước đấy
không bao lâu, họ là những người trai cường tráng đầy sinh lực đã từng sống một
thời oanh liệt.
Từ bốn
ngày qua, đội 3 được điều động đi khai phá thung lũng Bảy Mẫu trồng khoai lang.
Ðội phải xuất trại đầu tiên và nhập trại sau cùng. Ðường đến khu sản xuất mất gần
hai giờ di chuyển. Cuốc và rựa được cột lại thành bó rồi phân công tù vác đi ở
cuối hàng.
Sáng
nay, khí trời giá buốt, sương núi mờ mịt làm ướt sũng cây rừng. Toán 1 phụ
trách chặt cây và phát quang quanh khu vực. Họ phải mặc áo mưa trong lúc làm việc.
Số người khác giẫy cỏ, cuốc đất, vun thành từng vồng cao rồi giâm những đoạn
dây rau lang xuống đấy. Họ âm thầm làm việc như đám người máy không ngưng tay.
Tiếng rựa chặt cây, tiếng cuốc bổ vào lòng đất tạo thành những âm thanh khô khốc,
như nỗi chai cứng của tâm hồn người tù. Chốc chốc lời quở trách của quản giáo dội
xuống đầu tù nhân làm việc lơi tay như ngọn roi quất vào tâm não làm tăng thêm
cơn đói rã rời.
Cứ mỗi
mười lăm phút điểm danh một lần. Theo thông lệ, anh đội trưởng tù là người số một,
rồi người kế cận đếm số hai và cứ như thế cho đến anh cuối cùng. Cách thức kiểm
tù này là một trong những khuôn mẫu tại các trại tập trung mà Cộng sản Liên Xô
đã áp dụng sau cuộc cách mạng tháng Mười đẫm máu tại nước Nga. Không một tù
nhân nào bỏ trốn mà không bị phát hiện kịp thời.
Thời
gian chờ đợi tiếng còi nghỉ ăn trưa dài thê thảm. Những lát sắn luộc buổi sáng
đã hết sạch trong bao tử tự bao giờ. Phần ăn trưa vẫn là chén cơm ghế sắn thêm
một ít canh rau lang với muối và bột ngọt. Lượng thức ăn như thế, nào có đủ
ca-lo-ri cho một cơ thể phải làm việc cật lực trong suốt tám tiếng đồng hồ,
chưa kể thời giờ phải lội bộ lên dốc xuống đèo trên con đường đầy đất đá.
Ngoài
xã hội, Việt cộng áp dụng chính sách bần cùng hóa nhân dân. Thu tóm mọi nguồn
tài sản về cho Ðảng. Ðời sống của cả nước chẳng khác gì một nhà tù.
Mác
ví tư bản là con đỉa hai vòi. Một vòi hút máu dân trong nước, vòi kia hút máu
dân thuộc địa. Trên thực tế, chế độ Cộng Sản như loài đỉa nhiều vòi. Mỗi cấp
chính quyền, mỗi xí nghiệp quốc doanh là những vòi đỉa bu vào đồng bào ruột thịt
hút đến giọt máu cuối cùng và vươn cái vòi “thuộc địa” để hút máu của dân tộc
láng giềng bằng một hành động rất thâm độc cộng sản: “tinh thần quốc tế vô sản”! Âm mưu ấy bị thế giới chận
đứng ngay trên xứ Chùa tháp nên chúng “co vòi” luôn.
Rồi
giờ ăn cũng đến. Tiếng còi vừa thổi là cả đội gom cuốc rựa vào một nơi. Ðám tù
được lệnh tập trung quanh khu vực có bóng cây. Họ ăn vội vã để dành chút thì giờ
ít ỏi ngả lưng trên lá khô hay dựa vào gốc cây hầu lấy lại sức.
Chẳng
mấy chốc, giờ lao động buổi chiều lại bắt đầu, tù nhân được kiểm tra kỷ lưởng.
Lần này, cả đội đếm tới đếm lui vẫn thiếu bốn người. Sự hốt hoảng hiện rõ trên
khuôn mặt tên quản giáo và ba công an võ trang. Hắn đích thân đếm từng người một
rồi hét vào mặt anh đội trưởng tù:
“Bốn
thằng đó tên gì?”
Thoạt
nhìn, ai cũng biết ngay bốn anh vắng mặt là Ngọc, Huệ, Lộc và Hạp. Họ thuộc tổ 1 làm công tác chặt phát
những cây dại trong khu đất trồng khoai.
Ðai
úy Nguyễn Ngọc, nguyên là Ðai đội trưởng Ðịa phương quân thuộc tỉnh Tuyên Ðức ( Lâm Đồng). Nhà tù bây giờ là trại biệt kích thuộc
lực lượng cũ của anh đồn trú ngày xưa, nơi xuất phát các cuộc hành quân đột
kích vào mật khu VC. Do vậy Ngọc rất am tường địa thế trong vùng rừng núi Thượng
Ðức nầy.
Trương
văn Huệ là sĩ quan trong phái đoàn Quân sự Bốn Bên Kiểm Soát Ðình Chiến Hiệp định
Paris thông thạo Anh ngữ và tiếng Khờ me.
Lê Hữu
Hạp, trung úy phi công
lái phản lực cơ được đào tạo tại Hoa kỳ. Hạp còn là một hướng đạo sinh vững
vàng về mưu sinh thoát hiểm.
Riêng
Trần Xuân Lộc ai cũng biết con người đa dạng của anh, can đảm và xông xáo.
Với
thành phần ấy, bạn tù tin tưởng họ sẽ thành công trong cuộc trốn thoát.
Tên
quản giáo đích thân kiểm tra lại dụng cụ lao động mới phát hiện thiếu bốn cây rựa.
Hắn lập tức ra lệnh tên công an bảo vệ cấp tốc về trại báo. Ðội tù được lệnh ngồi
gom lại một chỗ. Ba nòng súng chĩa thẳng vào đám tù với tư thế sẵn sàng nhả đạn.
Nửa
giờ sau, hai chiếc xe GMC chở đội công an vũ trang đến áp tải tù nhân về trại.
Số còn lại cùng với hai con chó lùng sục chung quanh khu vực.
Công
an truy bắt tù vượt ngục từ thành phố cũng được điều động đến ngay. Chúng ïthiết
lập các nút chặn trên tuyến đường chính, lục soát tất cả các loại xe di chuyển
trên trục lộ.
Từng
ngày trôi qua là từng ngày bạn tù hồi hộp, lo âu nhưng cũng không che giấu được
niềm vui trên ánh mắt họ.
Nói
về toán trốn trại (*). Thừa lúc lộn xộn trong giờ ăn trưa, họ lủi vào rừng mang
theo thức ăn và cây rựa giấu trong áo mưa. Giờ đầu tiên, họ luồn lách rất nhanh
theo đúng kế hoạch đã tính toán. Sau thời gian nghỉ ăn trưa, đội tù mới được kiểm
số trở lại trước khi làm việc. Khi phát hiện, họ đã vượt ra khỏi vòng đai mà lực
lượng truy bắt tù không thể bủa vây.
Năm
ngày dài băng rừng, toán vượt ngục đã đi được một quãng đường khá xa. Thức ăn
khô mang theo chỉ còn đủ cho ba ngày nữa. Họ phải bẻ măng rừng, hái trái bòn
bon ăn giặm. Ngày đi, đêm ngủ tại những hốc cây cổ thụ hay trong hang đá.
Cuối
cùng thức ăn đã cạn. Cơn đói hành hại suốt hai ngày khiến họ hết kiên nhẫn đành
phải quyết định vào rẫy đào trộm sắn. Sắn chưa kịp nhổ lên, bất ngờ một tên du
kích người thượng bắt gặp. Mặc dầu khai là dân đi rừng nhưng hắn vẫn áp giải họ
về cơ quan của bản làng. Trên đường đi, Ngọc bị trật quai dép lùi lại phía sau.
Nhanh như chớp, anh trở sống rựa đập vào đầu tên du kích, cướp khẩu các-bin
cùng cả toán chạy vào rừng.
Ngọc
không cố ý giết tên du kích, nhưng vì cú đánh khá nặng tay nên hai ngày sau hắn
lên cơn động kinh rồi tắt thở.
Người
Thượng rất dễ tin nhưng cũng khó tha thứ. Cái chết của tên trai làng đã làm
tăng thêm sức thuyết phục lòng trung thành của họ đối với chế độ hiện hữu.
Cơn
đói đã khiến cho toán trốn trại mỗi ngày mỗi chậm lại. Cần thức ăn để có sức tiếp
tục băng rừng, thế nên buôc lòng họ phải tìm đến rẫy sắn. Rút kinh nghiệm lần
trước, lần nầy họ vào rẫy ban đêm.
Toán
trốn tù không ngờ cái chết của tên du kích đã khiến cho dân bản Thượng quyết
tâm phục hận. Vừa đặt chân bên trong hàng rào là bị ngay những loạt đạn nả vào
họ. Lê Hữu Hạp bị trúng đạn gãy chân, ba người còn lại tẩu thoát vào rừng.
Chúng
kéo Hạp về buôn Thượng và triệu tập dân trong bản Thượng chứng kiến
cảnh xử tội kẻ thù. Với
thân thể lõa lồ, Hạp bị cột căng hai tay hai chân vào bốn trụ đóng nơi sân cờ của
cơ quan Xã, rồi cả đội du kích vừa hò reo vừa phóng những cây lồ ô vót nhọn vào
thân thể Hạp như đâm một con trâu để tế thần. Chúng giết Hạp để trả thù cho đồng
đội.
Sáng
hôm sau, Ban Giám Thị trại tù cho người khiêng Hạp về đặt xác bên cổng
trại ra vào kèm theo một tấm bảng ghi hàng chữ: “Tên Lê Hữu Hạp trốn trại bị cách mạng
xử lý ” thay cho một lời cảnh
cáo!
Nhìn
thi thể Hạp, không một ai khỏi ghê tởm cách giết người dã man đến thế. Ðôi
tròng mắt bị nát bấy bởi thanh lồ ô đâm suốt qua so nãọ. Ðôi mắt chỉ còn là hai
lỗ thủng sâu máu đọng đen sì.
Ôi,
Lê Hữu Hạp, người phi công tài ba đã một thời ngang dọc trên bầu trời quê
hương. Giờ đây anh chết thảm thương bởi những bàn tay man rợ nhất loài người.
Công
an đã xác định được tọa độ của toán vượt ngục. Chúng khoanh vùng dồn lực lượng
vào một nơi.
Toán
tù kỳ vọng vào rau rừng, măng le sẽ nuôi sống họ một thời gian, chờ khi yên
tĩnh sẽ lần mò xuống đồng bằng. Nhưng khốn thay, đồng bào Thượng bị đói quanh
năm nên đã vét sạch, bứt sạch những gì có thể ăn được trên rừng già.
Biết
điểm đứng đã bị lộ nhưng phải có chút gì để ăn hầu đổi hướng đi. Họ bị khuất phục
bởi cơn đói nên đành liều mạng trở lại rẫy sắn. Ðúng ngày thứ mười sáu kể từ
khi chạy trốn, toán vượt trại bị bao vây tại một đồi sắn. Trương văn Huệ mở đường
máu bằng những loạt các-bin và thoát được vào rừng, Ngọc và Lộc đều bị bắt sống.
Chúng
nhốt hai người tại hai phòng kiên giam riêng biệt. Ba ngày sau, Ngọc bị giết
trong cùm bằng phương cách rất thông dụng của công an giữ tù: Dùng thanh sắt đè
vào cổ nạn nhân cho đến khi tắt thở.
Cách
giết người như thế thường lưỡi của người bị chết lè ra thật dài và đôi tròng mắt
lồi ra ngoài hố mắt. Ngọc đã chết thê thảm như vậy bởi anh cương quyết không chịu
khai một điều gì cả. Ngay chiều hôm đó, một phái đoàn giới chức từ thành phố đến
trại khám nghiệm tử thi, chụp hình. Phần kết luận trong bản phúc trình hẳn
nhiên là: “Phạm nhân Nguyễn Ngọc đã cắn lưỡi tự tử”.Đây là hình thức
che mắt của CS giết tù nhân trong các trại giam mà bọn công an thường
xuyên áp dụng.
Trần
Xuân Lộc bị giải về Ty Công an để khai thác kẻ đồng mưu cung cấp thực phẩm, thuốc
men và viết diễn tiến cuộc trốn trại. Lộc còn phải liệt kê các địa điểm mà đồng
bạn anh đã ngủ đêm cùng những dự định cho những ngày sắp tới khi chưa bị bắt...
Sau
mười ngày hỏi cung, Lộc được trả về trại để ra trước một phiên tòa cấp tỉnh mở
ngay tại trại tù. Thành phần tham dự gồm ban giám thị, đội công an bảo vệ và gần
ngàn tù nhân.
Mở đầu
phiên tòa, một đại diện của hội đồng xét xử đọc bản cáo trạng của bên công tố.
Tiếp theo, tên Thư ký tòa đọc bản tường thuật của Lộc về diễn tiến cuộc trốn
tù. Theo thứ tự lớp lang được sắp xếp làm nhiều màn, nhiều cảnh.
Xen
vào mỗi màn là cảnh một già làng sắc tộc thiểu số than khóc, kể lể về cái chết
của tên du kích và yêu cầu tòa kết án tử hình bị cáo để đền mạng. Phiên tòa xử
án mà ta có cảm tưởng họ đang trình diễn một tuồng kịch với đám diễn viên vụng
về. Sự lố bịch của phiên tòa là diễn xuất theo kiểu “tòa án nhân dân” xét xử
theo nguyện vọng của nhân dân. Cái nguyện vọng nào có lợi cho đảng và tập đoàn cầm
quyền là chúng tận dụng. Còn nguyện vọng nào bất lợi chúng dùng chuyên chính vô
sản đàn áp. Đó là Pháp luật của
đất nước nằm trong bàn tay bạo quyền.
Phần
kết thúc phiên tòa, tên chánh án tuyên bố: “ Phạm tù Trần Xuân Lộc được phép
phát biểu ý kiến sau cùng”.
Cả hội
trường im phăng phắc, chờ đợi lời phát biểu của anh Trần Xuân Lộc.
Lộc
mặc aó quần tù màu xám nhạt, hai tay bị khóa còng số 8, hai chân mang xích sắt.
Anh đứng sau vành móng ngựa, đối diện với hội đồng xét xử có bốn công an võ
trang trấn bốn góc. Khuôn mặt Lộc gầy rộc, hốc hác, nổi lên hai gò má nhô cao.
Mái tóc hớt ngắn cùng với bộ râu quai nón của anh vừa mới cạo để lộ ra màu da
trắng xanh. Anh quay mặt về hướng người tham dự, đưa ánh mắt nhìn bạn đồng tù rồi
dõng dạc nói:
“Thưa
các ông, thưa các bạn, tôi bác bỏ hoàn toàn bản cáo trạng buộc tội tôi giết người,
nhưng tôi không phủ nhận rằng tôi có tội. Vâng, tôi có tội với nhân dân miền
Nam vì tôi chưa làm tròn trách nhiệm của người sĩ quan của Quân
Lực Việt Nam Cộng Hoà và...”
Nói
chưa hết câu, tên công an vũ trang đẩy vào miệng Lộc một báng súng. Máu miệng và mũi trào ra
loang đầy cả ngực áo. Lộc ngã gục xuống nền nhà. Nhiều tiếng lao xao trong đám
tù nổi lên, tiếp theo là tiếng lách cách lên đạn “cảnh cáo”của đám vệ binh đang
bủa vây xung quanh hội trường.
Ðáng
lẽ tòa dành mười phút để nghị án, nhưng với tình huống nầy chúng chẳng cần phải
trình diễn tiếp vở tuồng. Tên chánh án vội vã mời mọi người đứng dậy và tuyên
án
“… Tử
hình phạm tù Trần Xuân Lộc”!
Không
có một ai ngạc nhiên với cái án tử hình ấy. Một phiên tòa xét xử tội đại hình
mà chẳng có luật sư biện hộ và chẳng có nửa lời đối chất của bị cáo. Người ta
thật sự đau xót cho thân phận con người sống trong xã hội Xã Hội Chủ Nghĩa, một
chế độ dùng baọ lực đè bẹp công lý, một chính quyền dung dưỡng dối trá và hận
thù.
Chẳng
đợi mười lăm ngày theo thủ tục kháng án hay xin ân giảm, mà ngay trong đêm hôm
sau, chúng giết Lộc trên đồi sắn rồi chôn anh tại
đó. Một tấm bia bằng gỗ xẻ mỏng được viết ngoằn ngoằn tên Trần Xuân Lộc bằng
sơn.
Mùa
mưa đến, nước trên đỉnh núi đẩy xuống san bằng luôn nấm mộ. Từ khi đó, nếu ai để
ý trên ngôi mộ Lộc sẽ thấy từ từ xuất hiện những viên đá cuội, mỗi ngày mỗi nhiều
hơn. Rồi những năm tháng sau này nấm mộ Lộc trở thành đống đá vun cao.
Lộc
nằm đó, thân xác tiêu hủy theo thời gian nhưng gương can trường của người chiến
sĩ miền Nam vẫn còn sáng ngời trong long mọi người. Bạn tù đã điếu tang anh bằng bài thơ truyền khẩu
sau đây:
Anh
vượt thoát khỏi gông cùm nghiệt ngã
Tìm
tự do nơi đất Chúa vĩnh hằng,
Ðêm
hiện về sáng lồng lộng ánh trăng
Anh
ngạo nghễ giữa bầu trời xanh ngát
Trước
họng súng thù cất cao tiếng hát
Ðể
máu trào chuyển mạch vạn con tim.
Tiễn
người đi cơn uất nghẹn im lìm
Trong
bóng tối khóc thầm thương tiếc bạn
Anh
chí cả ôm vầng dương chiếu rạng
Ta
nhỏ nhoi như hạt bụi giữa đời
Người
đi vào trang hùng sử, Lộc ơi!
Về
phần Trương Văn Huệ, sau khi thoát thân vào rừng, công an truy lùng khắp mọi
nơi và tiếp tục phục kích các khu rẫy sắn nhưng chẳng có một kết quả nào.
Các
anh đã vượt thoát vĩnh viễn khỏi miền đất tù ngục nầy.
Tự
Do hay là chết?
Các
anh đã chọn cái chết để được Tự Do. Chúng tôi ở lại tiếp tục bị đày đọa với
tháng ngày bất tận khổ đau, nhưng gương bất khuất của các anh là
ngọn lửa luôn luôn sưởi ấm trong lòng chúng tôi.
Hãy
ngừng tay, hỡi những ai có mưu đồ tiếp sức cho Cộng Sản Việt Nam. Ðừng vì quyền
lợi riêng tư mà xúi giục tuổi trẻ Việt Nam ở hải ngoại đem tài năng về nước phục
vụ cho một chính quyền bá đạo đang kéo đất nước vào bóng tối mịt mùng.
Hạo
Nhiên Nguyễn Tấn Ích
(*)
dựa theo lời tường thuật của Trần Xuân Lộc trong bản thẩm cung.
No comments:
Post a Comment