Chuyện Tháng Tư Đen
Tác giả Lâm Văn Bé
1.
Lịch sử nhiều khi bị thay đổi. Không phải vì sự kiện lịch sử thay
đổi, nhưng sự kiện lịch sử khi được tường thuật, nhận định, lại bị thay đổi bởi
chính kiến, thành kiến, tư lợi.
Khi xưa, sử quan viết sử để phục vụ cho một triều đại cầm quyền,
hôm nay người viết sử hay nghiên cứu sử lại bị quyền lợi cá nhân hay phe nhóm
chi phối. Đem tâm tình viết lịch sử và đọc lịch sử là chuyện muôn đời.
Sự gian trá, ngụy tạo tài liệu lịch sử lại càng trầm trọng hơn với
thông tin điện tử. Thông tin trên
internet hôm nay là sản phẩm đôi khi của tưởng tượng, nếu không là
sự lập lại thành thật những dữ kiện đã bị nhào nặn, vô tình hay cố ý qua các
trung gian.
Dĩ nhiên, chúng ta không thể đa nghi về mọi sự việc, nhưng đôi
khi, việc sử dụng óc phân tích, sự thông minh để phân biệt hư thực là điều cần
thiết.
Nhân ngày 30 tháng tư, chúng tôi muốn ghi lại những biến cố quan
trọng của Tháng tư đen từ một số tài liệu và hồi ký viết bởi các
tác giả người Mỹ, Pháp, và nhất là người VN, để xem chỉ một tháng thôi, sự kiện
lịch sử đã được tường thuật và nhận định khác biệt thế nào bởi ngay những chứng
nhân hay tác nhân của các biến cố.
- 4 tháng tư: Trần Thiện Khiêm từ
chức (Todd, p.237), [nhưng theo Hoàng Đống, tr. 356 thì Khiêm từ chức ngày 2]
và đề nghị một danh sách người kế nhiệm là Trần Văn Đổ, Nguyễn Ngọc Huy, Trần Văn
Lắm. Sau khi cân nhắc, ngày 5, TT Thiệu mời Nguyễn Bá Cẩn đứng ra lập nội các
chiến tranh (Viên, tr.218) nhưng phải chờ đến ngày 14 tháng 4, tân thủ tướng
mới trình diện được nội các với Tổng Thống Thiệu.
- Theo Nguyễn Tiến Hưng trong Khi Đồng Minh tháo chạy «
Trong
suốt buổi lễ, ông Thiệu tỏ ra căng thẳng, vẻ mặt xanh xao, duờng như những biến
cố vừa quađã tiêu hao hết nghị lực của ông bởi Cộng Sản(CS) đã tiến gần đến
Phan Rang, nơi sinh trưởng của ông » (Hưng, tr. 310).
- Theo Snepp, giới chính trị dửng dưng vì đó chỉ là bình phong vì
mọi việc do TT Thiệu quyết định, còn Polgar, trưởng phòng CIA tại Saigon thì
hài lòng vì một tổng trưởng quan trọng của nội các là nhân viên của CIA (Snepp,
tr. 232).
- Theo Trần Văn Đôn, mặc dù ông chấp nhận chức vụ Phó Thủ Tướng,
nhưng ông đã nhận định ông Thủ Tướng của ông «không phải là người của tình thế,
không phải là người dốc tâm dốc sức để giải quyết cơn bệnh đã đến hồi ngặt
nghèo của VNCH » (Đôn, tr. 447)
Bùi Diễm, đại sứ VN tại Mỹ tỏ ra xem thường ông Cẩn cho là « một
người mà tất cả Saigon biết rằng chẳng có quyền hành gì » (Diễm, tr. 560)
- 8 tháng tư: Trung Úy KQ/VNCH “trở cờ” Nguyễn Thành Trung lái F-5 oanh tạc
dinh Độc Lập rồi đáp xuống phi trường Nha Trang (Đà Nẳng, theo Darcourt, Phước
Long, theo Lý Quí Chung) đã do CS kiểm soát. Báo chí Saigon lúc ấy đăng tin
Trung là người bị khủng hoảng tâm thần nhưng CS xác nhận Trung là đảng viên
CSđã được gài vào Không quân Saigon, được tu nghiệp ở Hoa Kỳ từ năm 1969 đến
1972.
Sau này, năm 1996, Trung là phi công trưởng lái chiếc Boeing 767
đưa chủ tịch Lê Đức Anh qua New York dự lễ kỷ niệm 50 năm thành lập Liên Hiệp
Quốc.
Cuộc oanh tạc gây ra nhiều hoang mang trong dân chúng và quân độ
như Kỳ đảo chánh hay TT Thiệu tạo đảo chánh giả để bắt các phe đối lập.
Cùng lúc ấy, tại Hà nội, Phạm Văn Đồng tiếp kiến Đại sứ Pháp
Philippe Richer đề cập đến viễn tượng hợp tác với Pháp trong việc khai thác các
mỏ dầu ở miền Nam, thay thế các chuyên viên Hoa Kỳ. Tổng Thống Pháp Giscard
d’Estaing chỉ thị cho đại sứ Jean – Marie Mérillon tại Saigon tích cực thăm dò
và bày tỏ lập trường của Pháp bên cạnh các nhà lãnh đạo VNCH và đại sứ Mỹ
Graham Martin.
- 9 tháng tư: CS bắt đầu chiến dịch đại tấn công với 16 sư đoàn được tổ chức
thành 4 quân đoàn, và một lực lượng yểm trợ hùng hậu gồm 1 sư đoàn pháo binh, 2
lữ đoàn chiến xa. Quân đoàn 4 gồm 3 sư đoàn do Trần Văn Trà chỉ huy gồm SĐ 341
(sư đoàn nầy tân lập, nhiều quân sĩ mới gia nhập, có nhiều lính dưới 18 tuổi),
SĐ 4, SĐ 7, tấn công Xuân Lộc và pháo kích vào Bộ Tư Lịnh Quân Khu 3 và phi
trường Biên Hòa. (Snepp, tr. 268)
Nguyễn Hữu An trong Chiến trường mới, thì chi tiết hơn:
quân CS có 17 sư đoàn chia ra 5 quân đoàn tấn công Saigon. Quân đoàn 1 do tướng
Nguyễn Hòa chỉ huy có 30 000 quân phụ trách vùng Đông Bắc (Lái Thiêu, Bến Cát),
quân đoàn 2 do Nguyễn Hữu An chỉ huy có 40 000 quân tấn công vùng Đông Nam,
(Long Thành, căn cứ Nước Trong, thành Tuy Hạ), quân đoàn 3 có 46.000 quân do Vũ
Lăng làm tư lệnh tấn công vùng Tây Bắc (Trảng Bàng, Hốc Môn), quân đoàn 4 do
Hoàng Cầm chỉ huy với 30 000 quân đánh hướng đông và đông nam (Xuân Lộc, Biên
Hòa, Long Bình), quân đoàn 232 do Lê Đức Anh chỉ huy 42 000 quân đánh hướng Tây
Nam dọc theo quốc lộ số 4. (An, tr. 245-47)
Trung đoàn 48 thuộc Sư đoàn 18 BB của tướng Lê Minh Đảo đã anh
dũng chống trả, mặc dù CS pháo kích đến 10 ngàn đại pháo trong một ngày (theo
Snepp thì 1000, có lẽ hợp lý hơn), nhưng đã đẩy lui được quân CS, và đây là lần
đầu tiên sau 3 tháng chiến thắng trên nhiều mặt trận, chiếm được 14 tỉnh, quân
CS bị chận bước tiến. Tướng Trần Văn Trà, trong hồi ký Kết thúc
cuộc chiến 30 năm, đã nhìn nhận là ba sư đoàn của Hoàng Cầm bị thiệt
hại rất nhiều, Tướng Trà phải tăng viện quân trừ bị của sư đoàn 6 và 7.
- Ngày 10, tướng Cao Văn Viên tăng viện Xuân Lộc: không quân dội bom 750
cân ở cao độ rất thấp, khiến quân CS bị thiệt hại nặng (2000 bị thương và thiệt
mạng (Todd tr. 283) nên phải tiếp viện trước khi tái tấn công Xuân Lộc nhằm cắt
đứt với Biên Hòa. Theo Nguyễn Khắc Ngữ, con số này là 1000(Ngữ, tr. 326)
Nhưng chiến thắng Xuân Lộc không tạo được ấn tượng nào trong chính
giới Hoa kỳ. Tuy nhiên, Tổng Thống Gerald Ford, trong một bài diễn văn đọc trên
đài truyền hình toàn quốc cũng vào ngày 10 tháng4 yêu cầu Quốc Hội viện trợ
quân sự cho VNCH 722 triệu mỹ kim theo đề nghị của tướng Frederick Weyand, tư
lệnh lực lượng Mỹ ở VN, và 250 triệu viện trợ dân sự cung cấp phương tiện cứu trợ
người tị nạn, nhưng đã bị Thượng Viện, lúc bấy giờ thuộc đảng Dân Chủ không trả
lời. Sau đó, ngày 16 tháng 4, TT Ford, trong bài diễn văn đợc trước Hội các
nhà biên tập báo chí Hoa Kỳ (American Society of Newspaper Editors) lên
án Quốc Hội Hoa kỳ đã bội ước không tôn trọng nghĩa vụ giúp đỡ VNCH trong khi
Liên Sô và Trung Cộng gia tăng viện trợ cho Bắc Việt. Để trả lời TT Ford, ngày
hôm sau, Thượng Viện biểu quyết không chấp nhận bất cứ một viện trợ quân sự bổ
túc nào cho VNCH.
Phải chăng, chính sách chống chiến tranh VN của đảng Dân Chủ là lý
do khiến đa số người VN ở Mỹ có ác cảm với đảng Dân Chủ và ủng hộ đảng Cộng Hỏa
với mọi giá !
Thực ra, tất cả chỉ là sự lừa dối hào nhoáng, danh từ mà
Neil Sheehan đã đặt tên cho quyển sách của ông, bởi lẽ tuy bề mặt Ford làm ra
vẻ như muốn giúp VN, nhưng bên trong, Ngũ Giác Đài tuyên bố đã tuyệt vọng và
Tổng Trưởng Quốc Phòng James Schlesinger đã tuyên bố là viện trợ chỉ vì uy tín
của Hoa Kỳ: «Chúng ta không thể nào là quốc gia bỏ rơi đồng minh, phản bội lời hứa
của chúng ta» (Todd p. 271).
- Ngày 12, cuộc triệt thoái của Mỹ trên đất Cao Miên là một báo hiệu cho
miền Nam, càng gia tăng thêm cơn sốt chính trị và nỗi hoang mang lo sợ trong
dân chúng.
Lúc 7giờ 45 sáng, ba đoàn trực thăng khổng lồ cất cánh từ hàng
không mẫu hạm Okinawa trong vịnh Thái Lan đáp xuống Nam Vang để di tản giới chức
Mỹ và Cao Miên của chánh phủ Long Boret.
«Thật là ngạc nhiên và nhục nhã cho người Mỹ, tất cả nội các và đa
số nhân vật cao cấp trong chánh quyền Cao Miên từ chối lời mời của Mỹ để di tản
như thủtướng Long Boret, Lon Non (em của Lon Nol), mặc dù những người nầy có
tên trong danh sách bị án tử hình của Khmer Đỏ ».(Todd p.274)
Tinh thần kiên cường nầy đã biểu hiện rõ trong bức thư của Hoàng
thân Sirik Matak viết tay bằng tiếng Pháp gởi cho đại sứ Mỹ John Dean.
Thưa ông Đại Sứ ,
Tôi thành thật cám ơn lời mời của Ông định đưa tôi đến bến bờ tự
do nhưng tôi không thể nào bỏ đi một cách hèn nhát như vậy.
Đối với Ông và quốc gia vĩ đại của Ông, tôi không bao giờ tưỡng tượng
được, dù chỉ một phút, các Ông đành lòng bỏ rơi một dân tộc đã chọn lựa chiến đấu
cho tựdo. Các ông ra đi, tôi xin cầu chúc cho Ông và quốc gia của các ông sẽ
tìm được hạnh phúc duới bầu trời này.
Nhưng các ông nên ghi nhận điều nầy là tôi sẽ chết ở đây, trên đất
nước thân yêu của tôi, và chúng tôi chỉ ân hận đã phạm một sai lầm lớn là đã đặt
niềm tin vào các ông và nước Mỹ của các ông.
Sirik Matak
Vài ngày sau, Kissinger đọc bức thư của Matak cho các thượng nghị
sĩ nghe trong bầu im lặng tuyệt đối và nỗi bàng hoàng. Và để kết luận,
Kissenger vớt vác: Là người Mỹ, chúng ta phải làm thế nào để đừng có
những bức thư như thế này nữa. (Todd, p.280)
* Cuộc di tản của Mỹ ở xứ chùa Tháp vẫn không lay chuyển được niềm tin của
TT Thiệu về sự sống còn của chế độ VNCH. Sau đây là cuộc đối thoại giữa
Hoàngđức Nhã và TT Thiệu được Todd ghi lại (Todd tr. 276)
- HĐN: Chuyện như vậy sẽ xảy đến ở Saigon
- TT Thiệu: Chú tin như vậy ?
- HĐN: Đúng vậy, nếu CS tập trung lực lượng tấn công chúng ta.
- TTThiệu: Tôi không tin như vậy và chẳng tin bao giờ như vậy. Ở đây
có nhiều yếu tố khác.
* Dương Văn Minh, người tự nhận là cứu tinh của đất nước, bình thản nhận
được tin Nam Vang thất thủ lúc đang uống trà với các bạn tại Đường Sơn Quán, tiệmăn
của tướng Mai Hữu Xuân ở Thủ Đức.
Trả lời câu nói của bạn ông là Tôn Thất Thiện là rồi đây Cộng Sản
sẽ vô Saigon, Minh phản đối: Anh không phải là quân nhân, anh chẳng biết gì cả.
Phải 6 tháng nữa kìa. (Todd p. 293).
-Ngày 14 , Trần Văn Đôn gặp Đại sứ
Martin thông báo là ông vửa tiếp xúc với một đại diện Mặt Trận Giải Phóng và đề
cập đến 3 điểm:
- Đôn có thể thay thế Thiệu,
- CS không cản trở người Mỹ di tản người Việt,
- và Hoa kỳ có thể giữ lại một một tòa đại sứ nhỏ ở Saigon với
điều kiện những viên chức Mỹ phải ra đi.
Trong khi Snepp không tin những tin tức loại này cũng như luận
điệu tương tự của đại sứ Pháp
Mérillon chỉ vì tham vọng cá nhân cũng như ý đồ của nước Pháp,
Martin lại có vẻ tin tưởng. (Snepp tr. 272).
Điều nầy cũng được Đôn xác nhận trong hồi ký của ông: «Cũng
trong ngày 20 tháng tư, lúc 4 giờ
chiều, tôi đến gặp đại sứ Martin tại sứ quán, Martin đã nói với
tôi:Thật sự lúc đó [trả lời câu hỏi của TT Thiệu] tôi muốn ông [Trần Văn Đôn]
làm thủ tướng toàn quyền hơn là ông Minh, nhưng Hà nội chỉ muốn nói chuyện với
ông Minh mà thôi» (Đôn, tr. 457)
Không tin chiến thắng sắp đến của CS, mà cũng không hi vọng Quốc
Hội Mỹ chấp nhận viện trợ bổ túc.
Ngày 15 tháng 4, TT Thiệu cử Nguyễn Tiến Hưng sang Washington vận
động với TT Ford xin vay3 tỷ trong 3 năm, được bảo đảm bằng lợi tức dầu hỏa sắp
khai thác ở ngoài khơi, 16 tấn vàng dự trử, tiềm năng xuất cảng gạo (Hưng, tr.
312).
Nhưng đã quá muộn. Ngày 18 tháng 4, Ủy Ban Quốc Phòng
Thượng Viện bỏ phiếu chống việc tăng quân viện cho VNCH và Ủy Ban ngoại giao
Thượng Viện cho phép TT Ford sử dụng quân đội để di tản người Mỹ ra khỏi VN.
Quốc Hội đã giúp cho Ford rửa mặt, đặc biệt cho Kissenger khi ông nầy tuyên bố:
«Cuộc thảo luận về VN nay đã chấm dứt. Hành Pháp Hoa Kỳ đã chấp nhận
bản án của Quốc Hội, không hiềm thù, không biện minh và cũng không kháng cáo.» ( Hưng, tr.318)
- Ngày 17, Nhận lịnh của thượng cấp, Jean-Marie Merillon gặp Dương Văn Minh,
hứa hẹn nước Pháp sẽ ủng hộ Minh. Cảm động, Minh bắt tay Mérillon ứa lệ, hứa
sẽlàm được gì có thể. Minh tin tưởng lá bài trong túi: người em là Dương Văn
Nhựt đang ở bên kia.
Sự can thiệp của Pháp vào giờ thứ 25 thật sổ sàng, làm áp lực với
Tổng Thống Thiệu từ chức để thay thế bằng Dương Văn Minh .
Trong khi đó, Saigon xôn xao vì những tin tức hòa bình và chiến
tranh trái ngược:
- Bắc Việt không bao giờ tấn công Saigon. Sẽ có một chánh phủ 3
thành phần
- Đặc công đang xâm nhâp vào Saigon chuẩn bị cuộc tấn công chiếm
đóng
- Sẽ có đảo chánh ở Saigon, ở Hà nội. (Todd p.295).
- Ngày 18, Merillon gặp Martin thảo luận về việc làm áp lực với TT Thiệu từ
chức. Martin đồng ý.
Tinh thần TT Thiệu xuống thấp, tin tức nhiều người thân cận hay
đối lập muốn ông từ chức hay đảo chánh, (Cao văn Viên, Nguyễn Cao Kỳ và tướng
lãnh thân cận) mồ mã ông bà bị đập phá ở Phan Rang (điềm chẳng lành vì ông rất
tin dị đoan và theo Nguyễn khắc Ngữ, tr. 341, đó là lý do quan trọng khiến ông Thiệu
từchức), ông tự cô lập trong bunker trong dinh Độc Lập, không buồn trả lời cả
điện thoại của tòa đại sứ Mỹ.
Về việc đảo chánh, ông Viên đã cực lực đính chánh trong biên khảo Những
ngày cuối cùng của VNCH: «Tác giả là một quân nhân thuần túy, không làm chính
trịvà cũng không có những tham vọng chính trị. Tác giả đã chứng kiến những tai
hại của hai vụ đảo chánh trước, nên dù cho có ai rủ đảo chánh, tác giả cũng
không làm. Ở đây, tác giả cũng muốn khẳng định những tin tức về tác giả do
Frank Snepp viết trong Decent Interval (trang 287, 288, 394, 397) về cá nhân
tác giả là những ý nghĩ xuyên tạc, đoán mò» (Viên, tr.217,18)
Việc Nguyễn Cao Kỳ bỏ ý định âm mưu đảo chánh là do hai yếu tố.
Trước hết là sự từ chối của các tướng thân cận với ông như Tư lênh Không Quân
Trần Văn Minh, Tư Lệnh Sư Đoàn Dù Lê Quang Lưỡng, Tư Lệnh Thủy Quân Lục Chiến
Bùi Thế Lân và một số chỉ huy trưởng ở Biệt Khu Thủ đô và Vùng 3 Chiến Thuật. Olivier
Todd thuật lại (tr.300):
- Trần Văn Minh: Ông cứ làm đi, bắt tôi làm con tin. Tôi không làm
vì Tòa đại sứ Mỹ hứa đưa gia đình tôi sang Mỹ nếu tôi không làm gì.
- Bùi Thế Lân: Tôi không đem binh giúp ông, nhưng chúng tôi không
chống .
- Cao Văn Viên: Ông làm đi, nói cho tôi biết ngày giờ, tôi sẽ mở cổng
Bộ Tổng Tham Mưu.
Nhưng yếu tố quyết định là sự can thiệp kịp thời của Martin và
tướng Charles Timmes. Cuộc đối thoại giữa Kỳ và Martin suốt 2 giờ đã được
Timmes thu âm, nhưng tiếc thay, các sử gia đã không có dịp nghe được tài liệu sống
vì cái máy thu âm đã rủi ro bị xóa trong cái cartable của Timmes (Snepp, tr.
295-96)
Trong lúc quân đội gần như tan rả, ông Đôn, với tính cách TT Quốc
Phòng « quản thúc 5 tướng lãnh đã bỏ miền Trung là Lâm Quang Thi, Phạm Quốc
Thuần, Phạm Văn Phú, Lâm Quang Thơ và tướng không quân Nguyễn Đức Khánh. Tướng
Ngô Quang Trưởng thấy vậy nên cũng xin được quản thúc luôn !» (Đôn, tr.455)
- Ngày 20, lúc 10 giờ sáng, đại sứ Martin gặp TT Thiệu và cuộc hội kiến kéo
dài 1giờ rưởi. Theo Frank Snepp, nhân viên phân tích của CIA, trong quyển hồi
kýDecent Interval (bản dịch tiếng Pháp là Sauve qui peut) tiết
lộ rằng ông đã nhận được chỉ thị của Polgar, Giám đốc CIA Saigon, là soạn thảo
một bản nhậnđịnh càng đen tối càng tốt để theo đó Martin thuyết phục TT Thiệu
từ chức. Bản nhận định có đoạn như sau:
«Với sự tan rả của cuộc phòng thủ mặt trận Xuân Lộc và sự tập
trung binh đoàn Cộng Sản trong vùng3 chiến thuật, cán cân lực lượng chung quanh
Saigon nayđã nghiêng hẳn về CS. Mặc dù chính phủ có thể tăng viện cho những mục
tiêu có thể bị tấn công như Biên Hòa-Long Bình ở phía đông Saigon, các tỉnh
Long An-Hậu Nghĩa ở phía Tây hay tỉnh Bình Dương ờ phía Bắc, chánh phủ không đủ
sức cầm cự được lâu. Saigon sẽ bị cô lập trong vài tuần lễ».
Frank Snepp còn nói thêm là ông muốn viết chỉ một tuần lễ nhưng
Polgar không đồng ý, và cũng theo Snepp, bản nhận định này vẫn còn nằm trên bàn
làm việc ởDinh Độc Lập sau khi TT Thiệu ra đi, do
đó khi chiếm Dinh Độc Lập, CS đã lấy bản nhận định nầy để đăng
nguyên văn trong quyển Đại Thắng mùa xuân của Văn Tiến Dũng.
(Snepp, tr. 299)
Khi TT Thiệu hỏi Martin là nếu ông từ chức thì có thay đổi gì việc
viện trợ, Đaị sứ Martin trả lời nếu việc nầy xảy ra cách đây vài tháng thì có
thể có thêm được vài phiếu ở Quốc hội, còn bây giờ thì chắc không thay đổi gì.
Martin còn đâm nhát dao cuối cùng khi nói thêm “ giả dụ như quốc hội Mỹ có chấp
thuận việc viện trợ bổ túc cho VNCH đi nữa thì sự viện trợ đó cũng không thể đến
kịp thời để làm thay đổi tình thế quân sự tại miền Nam” TT Thiệu nói
trước khi buổi hợp kết thúc là ông sẽ lấy quyết định dựa theo quyền lợi tối cao
của quốc gia (Todd p. 311).
Buổi chiều cùng ngày 20, đến phiên Đại sứ Pháp Merillon đến gặp TT
Thiệu. Merillon gần như độc thoại, TT Thiệu ngồi nghe, đôi mắt lạc lõng.
Merillon mô tả tình trạng bi đát của chiến trường, ba phần tư lãnh thỗ bị mất
vào tay CS, do đó kêu gọi trách nhiệm lịch sử, danh dự cá nhân, tình bạn giữa bà
Thiệu và bà Mérillonđể TT Thiệu lấy một quyết định vì quyền lợi của quốc gia.
Kết thúc buổi gặp gở, TT Thiệu lửng lơ: Tới đâu hay tới đó -Advienne
que pourra (Todd p. 312)
Todd và Snepp không đồng thuận nhau về giờ gặp gỡ: theo Snepp thì
Merillon gặp TT Thiệu buồi sáng trước Martin, trái lại Todd cho rằng Merillon
gặp TT Thiệu buổi chiều sau Martin. Tuy là một chi tiết nhỏ, nhưng sự kiện
tường thuật khác nhau cùa hai nhà báo Pháp Mỹ có đầy thâm ý.
-Sáng ngày 21, TT Thiệu mời Phó TT Trần Văn Hương và cựu Thủ Tướng Trần
Thiện Khiêm để báo tin ông quyết định từ chức và yêu cầu Phó TT Hương, chiếu
theo hiến pháp thay thế ông(Snepp
tr.305), nhưng ông Nguyễn Bá Cẩn trong Đất nước tôi thì
trong phiên hợp này chính ông có mặt chớ không phải ông Khiêm.
Theo Nguyễn Khắc Ngữ, sở dĩ ông Thiệu chọn ông Hương thay thế vì
«ông muốn sau khi từ chức rồi, ông sẽ mang số tài sản khổng lồ đã thu góp được
trong thời gian tại chức ra ngoại quốc một cách êm thấm. Nếu ông nhường chức
cho phe chủ chiến Nguyễn Cao Kỳ hay phe chủ hòa Dương Văn Minh thì việc ra đi có
thểgặp khó khăn…»(Ngữ, tr.341).
Theo Frank Snepp trong Decent Interval thì
buổi nói chuyện của ông Thiệu với ông Hương đã bị CIA ở tòa đại sứ nghe lén
toàn bộ do đó ngay buổi chiều, trước khi TT Thiệu tuyên bố với quốc dân trên
đài truyền hình, phụ tá của trùm CIA Polgar là Tướng hồi hưu Charles Timmes đã
đến gặp Dương Văn Minh để dọ hỏi nếu người Mỹ loại ông Hương ra khỏi ghế Tổng Thống
thì ông Minh có chịu nhận chức vụ nầy hay không để điều đình với CS. Cũng theo Snepp,
ông Minh đồng ý ngay, quả quyết có khả năng thương thuyết với phe bên kia và gởi
ngay một đại diện sang Paris để thương thuyết. Timmestrao cho ông Minh 1000 mỹ
kim để mua vé máy bay cho sứ giả này, nhưng Snepp cho rằng ông Minh chẳng có
gởi ai đi mà cũng chẳng hoàn lại số tiền,và đại sứ Martin không được báo cáo về
buổi gặp gỡnày (Snepp, p.305)
-Tối ngày 21, lúc 19 giờ rưởi, TT Thiệu nói chuyện với quốc dân qua đài truyền hình,
trước các đại diện hành pháp, lập pháp, tư pháp. Ông kết tội người Mỹ đã phản bội
VN, ông gằn mạnh từng tiếng và lập lại:« các ông bỏ mặc cho binh sĩ chúng tôi dưới cơn mưa
pháo của Cộng Sản, đó là hành động vô nhân đạo của mộtđồng minh vô nhân đạo …»
và kết luận « tôi sẵn sàng nhận lãnh sự phán xét và buộc tội của đồng bào… Tôi từ chức
nhưng không đào ngũ. Theo hiến pháp, người thay thế tôi là Phó TT Trần Văn
Hương»
Sau 10 năm cầm quyền, TT Thiệu tuyên bố
từ chức trước quốc dân qua đài truyền hình tối ngày 21-4-1975 vàkết tội người Mỹ
đã phản bội VN.
Nguyễn Bá Cẩn nhận định là việc từ chức của TT Thiệu để Mỹ tiếp
tục viện trợ cho VNCH, mở đường cho Hoa kỳ và đồng minh thương thuyết một giải
pháp chính trị mà sự hiện diện của ông là một trở ngại (Cẩn, tr. 421), Trần Văn
Đôn thêm một lý do thứ hai là ông Thiệu sợ quân đội đảo chánh mà ông Thiệu nghi
là do ông [Đôn] chủ xướng. (Đôn, tr.458). Nguyễn Tiến Hưng, trong « Khi Đồng
minh tháo chạy» (tr.389) thì cho ông Thiệu từ chức vì các tướng lãnh không còn
ủng hộ. Nguyễn khắc Ngữ thì có nhận định tiêu cực hơn «trong bài
diễn văn từ chức nầy, ông đã hiện nguyên hình một tay sai của Hoa Kỳ, bị chủ đuổi
lên tiếng chửi lại bằng những lời bình dân nhất không thể thấy được trong ngôn
ngữ của một vị lãnh đạo quốc gia» (Ngữ, tr. 343)
.
Hoàng ngọc Thành cũng có nhận định tương tự về ông Thiệu «là người
thừa hành đắc lực nhất của Hoa Kỳ trong chiến tranh VN»(Thành tr. 559) là «
người hèn nhát, tại sao không chịu công bố trong năm 1974 và đầu năm 1975 các
bức thư hứa hẹn trả đủa Bắc Việt của Tổng Thống Richard Nixon nếu Cộng Sản Hà Nội
vi phạm hiệp định Ba lê, tại sao không công bố sớm để quốc hội và dân chúng Hoa
Kỳ biết những điều cam kết nầy để đánh vào điểm danh dự và lương tâm người Mỹ.
Làm mhư thế có lợi cho dân tộc VN, nhưng Nguyễn Văn Thiệu sợ bất lợi cho ông
nên không làm » (Thành, tr.566).
Todd thì cho là ông Thiệu từ chức là do lời khuyên của Thủ tướng
Singapore Lý Quang Diệu qua trung gian của Hoàng Đức Nhã. Liền sau khi nghe Lý
Quang Diệuđưa tin là người Mỹ sẽ lật đổ và khuyên ông Thiệu nên ra đi, Hoàng
Đức Nhã đã vội vàng điện thoại cho ông Thiệu từ Singapore: «đừng chờ
người ta lật đổ anh hay tống cố anh đi. Hãy đi trước đi, càng sớm càng tốt» (Todd,
tr. 277)
Trong khi ông Thiệu đọc diễn văn từ chức, các đơn vị cuối cùng của
sư đoàn 18 của tướng Lê Minh Đảo rút ra khỏi Xuân Lộc, và vài giờ sau, bộ chỉ
huy QuânĐoàn 3 của tướng Nguyễn Văn Toàn phải di tản về Saigon. Biên Hòa và
Vũng Tàu bị đe dọa nặng.
Chỉ 2 giờ sau lễ bàn giao giữa ông Thiệu và ông Hương, đài phát
thanh Giải phóng và Hànội đồng loạt tuyên bố: «Đó cũng chỉ là một chế độ
bù nhìn, chánh phủThiệu không có Thiệu » (Todd, p.316).
- Ngày 22: Tân Tổng Thống Hương lần lượt tiếp xúc ba nhân vật chính trị gốc
miền Nam là Trần Văn Lắm, Nguyễn Văn Huyền và Trần Văn Đôn để mời nhận chức thủ
tướng toàn quyền thay cho nội các Nguyễn Bá Cẩn được TT Thiệu bổ nhiệm 12 ngày trước,
nhưng cả ba đều từ chối (Darcourt, p. 131).
Theo Trần Văn Đôn thì sau đó, ngày 24 ông Hương mời ông Nguyễn
ngọc Huy, nhưng chuyện bất thành vì ông Minh đòi ông Hương phải giao quyền Tổng
Thống và ông Thiệu, tuy đã từ chức, vẫn cho ý kiến với ông Hương «đừng chỉ định
ông Huy làm thủ tướng» (Đôn, tr.467)
2.
Trong khi đó, 2 biến cố quân sự quan trọng xảy ra sát nách Saigon.
* Lê Duẩn đánh điện cho Lê Đức Thọ và Văn Tiến Dũng đang đặt bản
doanh ở Lộc Ninh yêu
cầu gia tăng các cuộc tấn công càng mạnh càng mau trên khắp các
mặt trận. Mọi chậm trể có thể đưa đến những hậu quả quân sự và chính trị trầm
trọng. Theo Olivier Todd thì Lê Duẩn sợ rằng nếu chiến trường kéo dài thì áp
lực chính trị quốc tế có thể can thiệp để chia cắt đất đai như hồi 1954 trước
hội nghị Genève. Tuân hành chỉ thị này, Văn Tiến Dũng ra lịnh cho tất cả các
lực lượng từ chiến khu C, chiến khu D, Khu Tam giác Sắt ở miền Đông, và các lực
lượng ở vùng đồng bằng Cửu Long và Cà Mau chuẩn bị tổng tấn công vào Saigon và các
tỉnh. Để phân công, bộ phận chính trị do Lê đức Thọ và Phạm Hùng đóng ở Lộc
Ninh, còn tướng Trần văn Trà và Văn tiến Dũng lập bộ tham mưu mặt trận ở Bến Cát,
sát nách Saigon.
* Để chận bước tiến của CS, Bộ Tổng Tham Mưu xin Tân TT Trần Văn
Hương cho phép thả 3
trái bom CBU-55 (giao cho VN ngày 16 tháng 4) tại các địa điểm mà
các đơn vị cuối cùng của SĐ 18 BB đã rút ra khỏi Xuân Lộc đêm hôm trước. Đó là
loại bom có sức công phá dữ dội nhất trong các loại vũ khí của Mỹ, khi còn cách
mặt đất chừng 10m thì nổ tung ra hàng trăm trái bom nhỏ hút hết tất cả dưỡng khí,
giết tất cả sinh vật trong một vùng có đường kính 250 thước (Todd) theo
Darcourt thì đến1km, ngay cả người dưới hầm sâu. Người chết không có vết thương
(vì bom không có miểng) mà chết trong tư thế tự nhiên (như đang ngồi, nằm,
đứng…). Ngoài ra, phi cơ Hoa Kỳ cũng thả 6 trái bom«daisy cutters” (Viên,
tr.202) là loại bom BLU-82 dùng để khai quang các bải đáp trực thăng (nặng
15000 cân Anh tức độ 7 tấn rưỡi) và hỏa tiển Wild Weasel (con chồn hoang) trong
vùng chung quanh Xuân Lộc. Tòa Bạch Ốc và CIA tuyên bố không hề được Không Lực
Hoa Kỳ thông báo sự can thiệp vũ bảo trong những ngày cuối cùng nầy của chiến
tranh VN. Những tài liệu giải mật sẽ giải thích hư thực về chánh sách đôi khi
khó hiểu của Hoa Kỳ.
CS lập tức trả đủa ngay sau vài giờ bị bom CBU. Sân bay Biên Hoà
bị pháo kích không sử dụng được nữa, phi cơ F5A phải «di tản» về Tân Sơn Nhứt,
một số khác phải về sân bay Cần Thơ.
- Ngày 23: Thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn xin từ chức. TT Hương yêu cầu ông Cẩn xử
lý thường vụ cho đến khi có chính phủ mới.
- Ngày 24: Dương văn Minh hợp báo:Tổng Thống Trần Văn Hương đã mời tôi nhận chức Thủ
Tướng. Tôi từ chối vì ở cương vị nầy, tôi không thể thương thuyết với phía bên
kia bởi điều kiện của phe Cách mạng là Tổng Thống Hương phải ra đi…
Ông Minh muốn đốt giai đoạn và đại sứ Pháp đã hướng dẫn ông ta
chơi một ván bài nguy hiểm dựa trên niềm tin rằng ông chưa bao giờ bị phe bên
kia chỉ trích và Cộng Sản sẽ thương thuyết với ông trên căn bản Hiệp định Paris
1973” (Darcourt, p.142).
Trong ngày nầy, đại sứ Pháp Mérillon vào dinh Độc Lập hai lần
khuyên ông Hương từ chức để trao quyền cho Dương Văn Minh. Ngoài ra, tướng Trần
Văn Đôn, Tổng Trưởng Quốc Phòng trong nội các Nguyễn Bá Cẩn cũng tự xưng và tự
nguyện đóng vai trò trong cuộc thương thuyết với phe bên kia bên cạnh tướng
Dương Văn Minh.
Trong khi Mérillon tỏ vẻ lạc quan về giải pháp chánh phủ liên hiệp
3 bên: Cộng Sản, Mặt Trận và phe Lực lượng thứ ba do Dương văn Minh đại diện,
thì các đảng phái, một số tướng lãnh họp ở khách sạn Palace không chấp nhận ông
Minh vì cho rằng ông Minh không có sự sáng suốt chính trị trong 10 năm qua và là
người thụ động, không đủ sức đương đầu với Cộng Sản. Luật sư Trần Văn Tuyên
công khai chống đối Mérillon vì thái độ xấc láo và can thiệp quá đáng vào nội
bộ VN: « ông Mérillon đã dám ngạo mạn nói với tôi rằng TT Hương đã già yều bịnh
hoạn phải đem vào bịnh viện để giải phẩu cho ông. Nếu ông vô bịnh viện thì bài
toán sẽ được giải quyết. TT Trần Văn Hương rất phẫn uất vì thái độ khinh miệt của
ông Mérillon. Nản lòng vì những lời mỉa may ác độc và những áp lực
đòi ông từ chức, vị tổng thống lớn tuổi của chúng ta dọa sẽ tự tử bằng ống thuốc
cyanure mà ông luôn đeo theo trong mình» (Darcourt , rr. 143-44)
Theo Hoàng Đống thì «CS và MTGPMN, qua đài phát thanh của họ ủng
hộ Dương Văn Minh là người chủ trương hòa giải hòa hợp nên có thể nói chuyện
được, vàĐại sứ Pháp 4 lần khuyên Hương từ chức, nhưng vì tham quyền cố vị và
ngây thơ nên Hương bỏ ngoài tay lời khuyên của đại sứ Pháp»(tr.362)
Trong lúc đó, đài phát thanh Hanoi và Giải Phóng miền Nam đồng
loạt đòi TT Hương phải ra đi. Thực sự, CS không có dấu hiệu nào thương thuyết
với bất cứ ai và chuẩn bị tấn công Saigon.
Điều nầy cũng được xác nhận trong «VNCH, 10 ngày cuối cùng» của
Trần Đông Phong là chính TT Trần Văn Hương đã cử tướng Phan Hòa Hiệp đại diện
cho chính phủ liên lạc với đại diện của CS trong Ủy Ban Liên Hợp 4 bên vận động
với CS một cuộc thương thuyết, nhưng CS đã bác bỏmọi hình thức thương thuyết và
đòi Miền Nam phải đầu hàng vô điều kiện (Phong, tr. 252-253)
- Ngày 25: Hôm nay, TT Hương lại tiếp đại sứ Mérillon và đại sứ Martin, cả
hai đều cố thuyết phục TT Hương nên cấp tốc đưa ra một giải pháp khảdĩ mở đường
thương thuyết với những người «cách mạng» (nguyên văn: les révolutionnaires). Giải pháp
nầy đòi hỏi sựtừchức của ông và giao quyền lại «cho một nhóm người nào đó» mà
phía bên kia chấp nhận (Darcourt, p.145).
Ông Hương từchối và nói với Martin: nếu tôi phải làm Pétain của
VN thì ít ra tôi phải đóng vai trò ấy trong danh dựvà đúng phẩm giá» -
Si je dois être le Pétain du VN, je le serai au moins dans l’honneur et la dignité
(Todd, p.324). Ông Hương muốn hành sửtheo đúng hiến pháp và câu hỏi căn bản là ông
Minh có được Hà nội thực sựchấp nhận hay không, TT Hương yêu cầu Martin thăm dò
qua đại sứBa Lan.
Sau khi từchức, ông Thiệu ngày ngày đi đi lại lại qua các phòng
trong dinh Độc Lập(tuy ông từchức nhưng ông vẫn còn ởtrong dinh ), nghĩ đến
cuộc phục hận. Ông Nguyễn Văn Kiểu, anh ông và cảem họông, Hoàng Đức Nhã đều
khuyên ông nên ra đi, nhưng ông từchối vì ông nghĩ là ông còn có một vai trò. Không
chịuđược cảnh nầy, bà Thiệu đã rời Saigon sáng 24 đi Bangkok trên một chuyến
bay thương mại (Snepp, tr. 334)
TT Hương cũng muốn ông Thiệu ra khỏi nước vì sựcó mặt của ông
Thiệu tạo khó khăn cho ông (hay cho ý kiến) nên nhờMartin can thiệp. Martin
cũng không muốn ông Thiệu bịám sát càng rắc rối hơn nên Martin tổchức cho ông
Thiệu rời khỏi nước. (theo Snepp, tr. 334, Trần Văn Đôn cũng khuyên TT Thiệu
trưa ngày 25 là nên ra đi vì Nguyễn cao Kỳ sẽtổchức ám sát)
Lúc 20 giởrưởi, Polgar và tướng Timmes đón ông Thiệu ởnhà ông
Khiêm trong BộTổng Tham Mưu. Đoàn xe 3 chiếc gồm ông Thiệu, Khiêm và hơn 10
người khác . Martin đợi sẵn ởphi cơ đểtiển đưa.
« Dù buồn thảm và cam chịu sốphận, ông Thiệu đi thủng thẳng, cốgiữphong
độ. Ông quay lại cám ơn ông Martin. Với giọng xúc động, Martin đáp lễ: Thưa Tổng
Thống, đó là điều tối thiểu tôi có thểlàm. Xin tạm biệt và chúc Ngài may mắn (Nguyễn tiến Hưng, tr. 392 và Todd
tr.339).
Phi cơtrực chỉ Đài Loan (và sau đó ông và gia đình sang tịnạn ởAnh
Quốc cho đến thập niên 1980 mới sang Hoa Kỳ).
Theo Hoàng Đống: « ngày 22-4, Thiệu và Khiêm được Mỹ đưa ra phi
trường Tân sơn Nhất bay qua Đài Loan. Trước đó 20 ngày, gia đình, của cải của
hai vịnầy đãđược an toàn chuyển ra ngoại quốc»(tr. 360).
Nhiều tài liệu Anh Pháp nói đến 16 tấn hàng hóa. Theo Lý Quý
Chung, thân cận của tướng Minh, ông Thiệu trốn chạy ( Chung, tr. 362).
Cùng một sựkiện, 4 tác giảthuật lại bốn cách khác nhau.
TT. Thiệu rời khỏi nước yên ổn, Martin thởphào. Ông lên xe đến
dựcuộc tiếp tân ởtoà đại sứ Ba Lan.
Sau đây là câu chuyện giọng nhát gừng giữa 2 ông đại sứ:
-Martin: Cộng Sản Bắc Việt có chấp nhận Dương Văn Minh không ?
- Fijalkowski (đại sứ Ba Lan): Sẽhỏi Hà Nội. Nhưng có câu hỏi của
Hà Nôi: Tại sao hàng không mẫu hạm Mỹ lảng vảng ngoài khơi hải phận VN.
- Martin: phải hỏi lại Hà Nội của các anh, tại sao có dàn hỏa tiển
gần Saigon. Hà Nội có muốn gây khó khăn cho Hoa kỳ trong công cuộc di tản
không? (Todd, tr.340)
Về dư luận ông Thiệu ra đi với 16 tấn vàng, Snepp, nhân viên CIA
tường thuật rất rõ (tr.296)
«Một tháng trước, Thiệu đã gởi qua Đài Loan và Canada một phần lớn
tài sản và bàn ghếbằng tàu thủy. Nhưng tài sản của quốc gia, 16 tấn vàng trịgiá
220 triệu mỹkim, tượng trưng cho một phần lớn kho bạc của Saigon cũng sẽ đi ra
nước ngoài (à expatrier). Lúc đầu, ông Thiệu dựtính gởi lén lút số vàng này vô
Ngân hàng Thanh Toán Quốc Tế Bâle (Banque des règlements internationaux de
Bâle) ở Thụy Sĩ, nơi mà chánh phủ đã có gởi một số vàng bảo đảm trị giá 5 triệu.
Ông Thiệu nói với các cộng sự viên là gởi vàng để mua trang bị cho quân đội.
Nhưng vài ngày trước khi gởi, tình báo Mỹ biết được nên tin tung ra trên báo
chí, hảng hàng không mà ông Thiệu đã thương thuyết hợp đồng rút lui. Để giải tỏa
mọi nghi ngờ, đại sứ Martin buộc ông Thiệu gởi số vàng nầy ở Federal Reserve
Bank of New York, ông Thiệu phải đồng ý. Ngày 16 tháng 4, Martin xin Washington
một chuyến bay đặc biệt, có bảo hiểm để chở số vàng nầy đi New York. Nhưng
Không Lực Mỹ cũng như Ngân Hàng không chấp nhận bảo hiểm chuyên chở một món
hàng trị giá quá lớn như vậy từ một nước đang có chiến tranh. Câu chuyện đang dằng
co thì 2 ngày sau, ngày 18 tháng tư, 16 sư đoàn Cộng Sản đang hướng về Saigon,
chuyện chở vàng bị quên đi và 16 tấn vàng vẫn ngủ yên trong Ngân Hàng Quốc Gia»
Đến ngày 25, sau khi giải quyết vấn đề bảo hiểm, vàng được đưa lên
phi cơ để chở đi New York, nhưng giờ chót bị Phó Thủ Tướng kiêm Tổng Trưởng
Kinh tếNguyễn Văn Hảo (nội các Nguyễn Bá Cẩn) chận lại nói là theo
lịnh của TT Hương chờ cho tân nội các được thành lập. Số vàng nầy vẫn còn nằm
trong phi cơ đậuở phi trường khi quân CS tiến chiếm Saigon. Cũng theo Snepp,
tuy không hẳn là theo CS, Nguyễn Văn Hảo đã được CS móc nối hồi đầu tháng tư là
sẽ được chế độmới đối xử tốt nếu bảo vệ kho bạc VNCH. (Snepp. tr.328).
Chuyện ông Thiệu muốn tẩu tán vàng là một tin đồn, nhưng
chuyện vàng bị các lãnh tụ đỏ sau nầy bu vào đục khoét là chuyện thực ! -Ngày 26: Lúc
10 giờ sáng, TT Hương đến hợp với lưỡng viện Quốc hội để được báo cáo tình hình
quân sự và quyết định người thay thế ông Hương. Có 183 trên 219 người đến tham
dự (Darcourt)
nhưng theo Lý quý Chung thì chỉ có 136 vì nhiều người đã chuồn ra nước ngoài (LQC,
tr.366).
Trong diễn văn, ông Hương không gọi đích danh Dương Văn Minh mà
gọi là «người ấy» (cette
personne):
« Trước hết tôi đã đề nghị với người ấy chức vụ Thủ Tướng với đầy đủ
quyền hành. Ông ta đã từ chối. Tôi đã phải mời ông ta đến gặp tôi tại dinh Độc
Lập, ông ta cũng từ chối. Với thiện chí muốn giải quyết vấn đề, tôi không kể
nghi thức và mặc dầu tuổi già sức yếu, tôi phải chấp nhận đến nhà một người bạn
chung để gặp người ấy. Tôi đề nghị với người ấy chức vụ Phó Tổng Thống, nhưng một
lần nữa, chẳng những người ấy từ chối mà còn nói với tôi là: Phải có tất cả
không thì thôi, có nghĩa là chỉ có Tổng Thống. Tôi lưu ý làm như vậy là vi hiến,
ông ta trả lời rằng: đó không phải là việc của ông ta. Sau đó tôi có đặt cho
ông ta một câu hỏi: Có gì bảo đảm là phía bên kia chấp thuận thương thuyết với
ông thì ông ta trả lời ngắn gọn là: Tôi đã nhận được từ phía bên kia những cam
kết cần thiết để làm tròn vai trò.
Mặc dù tôi nhấn mạnh nhưng ông ấy không có thêm một lời giải thích
nào khác ngoài những lời úp mở mà tôi không tin vào những lời đó. Tôi sẽ không
bao giờmuốn chịu trách nhiệm về việc trao quyền một cách bất hợp hiến, vì vậy,
hôm nay, tôi yêu cầu quý vị hãy trao quyền hành pháp lại cho người ấy bằng lá
phiếu hợp pháp của lưỡng viện Quốc hội. Đó là phương thức duy nhất vừa để cứu
Saigon khỏi bị một thảm họa mà không làm mất thể diện của quốc gia và chế độ.»
Tuy nhiên,theo bài viết của GS Nguyễn Ngọc An, cựu Tổng
TrưởngThông Tin Chiêu hồi trong nội các Trần Văn Hương ghi âm lại, đăng trong
Đặc San Pétrus Ký 1966, thì T/T Trần Văn Hương đề cập đích danh tên Dương Văn
Minh:
«…Với ý nghĩa đó, nghĩa là ý nghĩ thương thuyết, tôi đã ra công dò
xét tìm bên này, tìm bên nọ, hỏi thăm dò ý kiến mọi nơi. Tới bữa nay cũng nói với
quý vị là tôi có dịp đã gặp được Đại tướng Dương Văn Minh, bởi vì theo lời một
số người, thì Đại tướng Dương Văn Minh có đủ điều kiện làm việc này. Trong các
cuộc gặp gỡ, trong một tư thất của một người bạn chung – bởi vì họp mặt tôi muốn
tránh tiếng trước, không thể mời Đại tướng đến Dinh Độc Lập nói chuyện. Một mặt
tôi cũng không thể tự mình tới nhà Đại tướng mà nói chuyện. Cho nên chúng tôi
đã cùng nhau đến nhà một người bạn chung
- Sau khi nói chuyện, tôi nói rằng: “Theo dư luận, một số người
nói rằng Anh – xin lỗi, bởi vì giữa Đại tướng với tôi cũng còn cái thâm tình
nhiều – người ta bảo rằng Anh có đủ điều kiện để thương thuyết, vậy thì xin Anh
vì nước nhà, mọi tỵ hiềm qua, mọi chuyện không tốt đẹp đã xảy ra, xin Anh vui
lòng xóa bỏ để cùng nhau chung lưng dựng nước. Xin Anh chấp nhận cái ghế Thủ tướng
để đứng ra thương thuyết với phía bên kia.” Đại tướng, lẽ cố nhiên đối với tôi
lúc nào cũng giữ thái độchẳng những là người bạn thân mà giữ cả thái độ, xin lỗi,
như thể một người học trò của tôi vậy, mặc dù Đại tướng không phải là học trò của
tôi, Đại tướng nói: “Thầy đã hy sinh đến mức này, thôi xin thầy ráng hy sinh một
bước nữa mà thầy trao trọn quyền cho tôi.” Nghĩa là trao cái quyền tổng thống
cho Đại tướng…»
Nếu bài viết của Nguyễn ngọc An là trung thực, sự khác biệt
các tài liêu ngoại ngữ viết về VN lại còn phát xuất bởi sự diễn dịch và phiên dịch
của tác giả ngoại quốc và tác giả người Việt.
Sau khi TT Hương rời trụ sở Thượng Viện, cuộc thảo luận kéo dài từ
14 giờ đến 22 giờ mà kết quả là đi đến một quyết nghị lửng lơ: Quốc Hội nhìn
nhận TT Hương có đầy đủ tư cách để chọn người thay thế ông. Người nầy sẽ được
ủy nhiệm để xúc tiến cuộc thương thuyết. Tên của Dương Văn Minh không được ghi trong
bản quyết nghị này (Darcourt, p.151).
Nhưng theo Lý Quý Chung, trong Hồi ký của ông thì hoàn toàn khác:
«Cuộc
biểu quyết truất quyền ông Hương và trao quyền cho ông Minh được thực hiện với
sốphiếu gần như tuyệt đối 147/151 vào lúc20giờ 54… Tôi nhớ rất rõ không khí tại
trụ sở Thượng Viện trước và sau biểu quyết. Kẻ thì chán nản như người sắp chếtđuối
là các dân biểu nghị sĩ thuộc phe Thiệu, còn những người phe Dương Văn Minh thì
hấp tấp, vội vã như sợ không bắt kịp cơ hội cuối cùng »(LQC,
tr.367, 368).
Theo ông Đôn, cũng trong Hồi Ký thì «đa số nghị sĩ dân biểu
nghiêng về biện pháp trao quyền cho ông Hương chỉ định Thủ Tướng toàn quyền vì
cho rằng ông Minh xem thường Quốc Hội» và sau đó ông Hương gọi điện thoại với
ông và nói:«tôi sẽ chỉ định anh làm Thủ tướng» (Đôn, tr. 468,469)
Trong khi lưỡng viện Quốc Hội đang họp, lúc 12 giờ, Võ đông Giang,
đại diện cho Mặt Trận trong Ủy Hội Kiểm soát ở Camps Davis (Tân Sơn Nhứt) tuyên
bố: Đạo quân chúng tôi tiếp tục tiến công, không có ngưng bắn. - Ngày 27
tháng tư:
* 4 giờ sáng, nhiều tràng hỏa tiển bắn vào Saigon: thiệt hại: 9
người chết, 36 bị thương, những
đám cháy nhà cửa và hảng xưởng khiến 2000 người không nơi cư trú.
* 12 giờ: TT Hương gởi văn thư hỏa tốc cho Chủ tịch Thượng Viện: Theo hiến
pháp Quốc Hội
phải ra quyết nghị người thay thế tôi rõ ràng.
* 15 giờ: «Đại sứ Pháp điện thoại cho tôi [Đôn] biết: 6 giờ chiều
nầy nếu không có gì thay đổi thì Hà Nội sẽ pháo kích vào Saigon bằng súng cối
130 ly có tầm bắn xa 30 km» (Đôn, tr.471)
* 19 giờ:Trước khi dân biểu nghị sĩ bắt đầu thảo luận, tướng Trần
Văn Đôn, xử lý thường vụ
Tổng Trưởng Quốc phòng (nội các NBCẩn) thuyết trình tình hình quân
sự:
«14 sư đoàn Bắc Việt được trang bị võ khí hùng hậu đang bao vây
Saigon. Biệt kích và đặc công đã xâm nhập vòng đai. Không quân của ta đã hành
quân liên tục từ nhiều ngày qua nên các phi công và phi cơ đã quá sức chịu đựng,
ngoài ra còn bị thiệt hại khá nặng bởi phòng không của địch. Căn cứ Không quân
Biên Hòa gần như đã bị tê liệt vì pháo lực của CS. Trong vài ngày, cũng có thể
trong vài giờ, có thể Saigon sẽ bị tàn phá bởi đạn pháo 130 ly tầm xa của CS.
Nhứt định ta phải thương thuyết với họ để ngưng bắn càng sớm càng tốt»
Các dân biểu nghị sĩ la ó, phản đối tướng Đôn: Đồ hèn
nhát, chủ bại, bị bán đứng rồi, Tướng phòng ngủ. Tướng Đôn và các quân
nhân tháp tùng rời phòng hợp trong nhục nhả (Darcourt, p.154).
Hồi ký của tướng Đôn không đề cập gì đến sự kiện nầy.
Sau 4 giờ thảo luận sôi nổi, Quốc Hội biểu quyết chấp thuận cử
tướng Minh thay thế TT Hương trong chức vụ Tổng Thống. (120 phiếu thuận, 32
phiếu chống, 20 phiếu trắng theo Darcourt ; 136 phiếu thuận, 2 phiếu trắng theo
Todd.
Trong lúc đó, chuyến máy bay do Polgar tổ chức chở Nguyễn Bá Cẩn,
Nguyễn Khắc Bình, Hoàng Đức Nhã và một số nhân vật đi Phi luật Tân.
Quốc Hội biểu quyết chấp thuận cử tướng
Minh thay thế TT Hương trong chức vụ Tổng Thống. (AP Photo/Errington)
* 20 giờ, con đường nối liền Saigon-Biên Hòa bị cắt đứt, 700 quân
nhân của Sư đoàn 18 bị mất
liên lạc và quốc lộ số 4 nối với miền Tây cũng bị gián đoạn ở
nhiều nơi. Saigon trở nên cô lập như một hòn đảo.
Trong khi đó, cuộc di tản tuy chậm, nhưng diễn tiến trong trật tự
. Đến 12 giờ trưa ngày 27 đã có
35 245 người đã được Mỹ bốc đi. Các tòa đại sứ, trừ tòa đại sứ
Pháp, cũng bắt đầu đóng cửa và di tản nhân viên bằng đường hàng không.
Ngày 27 cũng là ngày Bắc Việt đổi ý về chiến lược. Theo đại sứ
Martin, tuy là hồi tháng ba, ông đã có tin tình báo là Hà Nội đã quyết định đi
tới một chiến thắng hoàn toàn bằng quân sự, nhưng những tin tức khác tử Mặt
Trận giải phóng ở Paris cũng cho biết là họ cũng muốn có một giải pháp chính
trị, và Martin cũng suy luận là CS dùng giải pháp chính trị để có thể tiếp tục
được viện trợ của quốc tế khi chiến tranh chấm dứt. Nhưng không hiểu vì lý do
gì, theo Martin thì đêm 27 tháng 4, CS đã dứt khoát chọn chỉ giải pháp quân sự
( Martin Graham. Vietnamese evacuation: testimony of Ambassador
Graham Martin. International relations, January 27, 1976 , p. 609,
trích dẫn bởi Nguyển Tiến Hưng, tr.391).
3.
Phần kết
-Ngày 28
Saigon đã thật sự hấp hối. Tân Sơn Nhứt bị pháo kích, người di tản
ố ạt đến tòa đại sứ Mỹ tràn ngập sân sau, trèo tường, song sắt để xin được di
tản. Từ sớm tinh sương, trực thăng của hảng Air America đáp xuống nóc tòa đại
sứ để tiếp tục đưa các chánh khách và tướng tá VN đến Tân sơn Nhứt hay ra hạm
đội, trong số có Cao Văn Viên.
Trong khi lực lượng Cộng Sản đang tiến về Saigon từ nhiều hướng,
thì « tại tư dinh ở số 3 Trấn Quý Cáp, suốt buổi sáng, Dương Văn Minh vùi đầu
vào việc chọn lựa các nhân vật thất sũng trong chánh giới Saigon để tìm người
cho nội các. Các ứng cử viên lần lượt đến tư dinh ông để xin chức, ông lạnh
lùng tiếp đón, gậtđầu chào rồi bảo họ ra vườn lan ngoài sau mà chờ. Nhưng ông
không bằng lòng các ứng viên bởi lẽ người này là diều hâu, người kia là bồ câu,
nên sau cùng ông chọn trình diện nội các với 3 người»(Snepp 355)
Lúc 17 giờ, lễ bàn giao giữa TT Trần Văn Hương và Dương Văn Minh
diễn ra tại dinh Độc Lập với các ông Nguyễn Văn Huyền Phó Tổng thống, Vũ Văn
Mẫu ThủTướng.
« Khi tân TT Dương Văn Minh vửa bắt đầu bài diễn văn nhậm chức của
mình thì sét đánh ầm ầm, một trận mưa to chưa có trong nhiều năm ập xuống
Saigon, thậm chí quan khách dự lễ không nghe được ông Minh nói gì. Cái không
khí chung của buổi lễ nhậm chức thật buồn não» (LQC tr.354).
Ông Minh tuyên bố muốn điều đình với chánh phủ Mặt Trận Giải Phóng
Giải Phóng và chánh phủ miền Bắc trên căn bản hiệp định Paris và một cuộc nhưng
bắn.
Ông Minh chấm dứt diễn văn lúc 17giờ 48 phút. Một giờ sau, đài
phát thanh Mặt Trận Giải Phóng lên tiếng:«Sau sự ra đi của tên phản quốc Nguyễn Văn Thiệu ,
những tên thay thế như Dương Văn Minh, Nguyễn Văn Huyền và Vũ văn Mẫu muốn duy
trì chiến tranh để kéo dài chế độ chư hầu của Mỹ. Nhưng chúng chẳng lừađược ai
và quân đội giải phóng chỉ chấp nhận một cuộc ngưng bắn với hai điều kiện: ngụy
quân Saigon buông súng và hạm đội Mỹ rời khỏi hải phận miền Nam VN.Các binh sĩ
nào còn nghe lịnh của Mỹ Ngụy sẽ bị trừng trị đích đáng để làm gương»
(Todd, 355)
Khi ông Minh và đoàn tùy tùng từ Dinh Độc Lập trở về «dinh Hoa
Lan» (nhà của DVM) thì nghe vang lên những tiếng nổ rung chuyển cả Saigon. Năm
phản lực cơA-37 mà quân CS vừa mới chiếm được xuất phát từ Nha Trang, dưới sự
chỉ huy của Trung úy Nguyễn Thành Trung oanh tạc phi trường Tân Sơn Nhứt và
vùng Hốc Môn. Tại Paris. tổng trưởng ngoại giao Pháp tiếp đại sứ Bắc Việt Võ
văn Sung và đại diện Mặt Trận Phạm Văn Ba để bày tỏ sự ngạc nhiên về sự trở mặt
của Cộng Sản. Vai trò trung gian mà Pháp nghĩ rằng mình có thể đóng góp trong
cuộc giàn xếp chính trị vào giờ thứ 25 của cuộc chiến đã hoàn toàn thất bại.
-Ngày 29 tháng tư
Saigon hôm nay bắt đầu thực sự đi vào cơn hỗn loạn.
* Từ 4 giờ sáng, đại bác của CS bắn vào bộ chỉ huy của Tổng Tham
Mưu ở Tân Sơn Nhứt và
bộ tư lệnh hải quân. Nhiều kho súng và kho săng bốc cháy, bùng nổ.
* 6 giờ sáng, Văn tiến Dũng ở Bến Cát nhận lời khen ngợi của Bộ
Chính trị ở Hà Nội và yêu cầu Dũng tiến quân thần tốc.
* 10 giờ sáng, đài phát thanh Saigon đọc bức thư của Dương Văn
Minh gởi cho Martin:
«Tôi trân trọng yêu cầu ông đại sứ vui lòng ra chỉ thị cho các
nhân viên cơ quan tùy viên quân sự DAO rời khỏi VN trong 24 giờ đồng hồ kể từ
ngày 29 tháng 4, 1975 để vấn đề hoà bình của VN sớm được giải quyết» (Todd p. 362).
Bình luận về ông Minh, Kissinger đã viết:« Ông
Minh làm Tổng Thống không tới 72 giờ, chỉ đủ làm được hai việc quan trọng: một
là yêu cầu Hà Nội ngưng chiến và thương thuyết chính trị, điều mà Hà Nội đã từ
chối thẳng thừng, và hai là ngày 29 tháng tư, ông yêu cầu tất cả người Mỹ rút
ra khỏi VN 24 giờ. Bức thư này phù hợp với lịch trình rút lui của chúng tôi, nó
đã thực sự giúp cho chúng tôi tháo ra mà không bị chỉ trích là Mỹ đã bỏ rơi đồng
minh của mình» ( Hưng, tr.393).
Ông Hoàng ngọc Thành tiết lộ một chi tiết «ly kỳ» hơn: Tòa đại sứ
Mỹ soạn một văn thư cho tuớng Minh yêu cầu người Mỹ rút đi trong vòng 24 giờ và
bảo chođọc trên đài phát thanh Saigon. Dương Văn Minh kể cho bà con và bạn hữu
biết là ông đã làm như đại sứ Graham Martin bảo (Thành,tr. 568).
Nếu quả tình sự việc như vậy, VN đã đến hồi mạt vận vì một
nhân vật luôn có mặt trong những cơn khủng hoảng chính trị lớn, chỉ vì muốn làm
tổng thống mà hạ mình nhận lệnh của Pháp và của Mỹ.
Trong khi đó, Saigon bắt đầu một cuộc hỗn loạn không tả được. Từng
đoàn người tràn vào chiếm kho hàng ở Tân Cảng, súng đạn tủa ra khắp nơi, người
ta đạp trên xác chết quân sĩ và đặc công.
Thành phố không còn có chỉ huy: DVMinh đã cách chức tướng Bình, 60
000 cảnh sát và 10 000 cảnh sát dã chiến không biết nghe lịnh ai, quân đội cũng
thay đổi tham mưu trưởng 3 lần trong 24 giờ: hôm kia là Cao Văn Viên, nhưng ông
đã ra đi cùng với tham mưu phó, hôm qua là tướng Nguyễn Văn Minh và Vĩnh Lộc,
nhưng mỗi người chỉ có vài giờ rồi cũng bỏ đi cùng với Chung Tấn Cang, Mai Hữu
Xuân, Nguyễn Cao Kỳ, Ngô Quang Trưởng, nói chung có 60 vị tướng lãnh.
Trường hợp của Đặng Văn Quang thì bi đát và nhục nhã hơn. Pierre
Darcourt đã kể:
«Một cảnh tượng bi đát đã xảy ra ở cổng tòa đại sứ. Tướng Đặng Văn
Quang mà nhiều người tố cáo là đứng đầu đường dây buôn lậu ở VN lại không có
tên trong danh sách di tản của người Mỹ. Binh sĩ gác cổng đuổi ông đi. Ông phải
chạy lại van nài nghị sĩ Nguyễn Văn Ngải giúp ông xin trực thăng bốc đi. Có ai
ngờ, một ông cựu cố vấn quân sự của Tổng Thống, ngạo mạn kiêu căng, tác oai tác
phúc ở dinh Độc Lập suốt mấy năm trời thì nay chỉ là một đống mỡ run rẩy vì sợ
sệt. Ông ta hết quỳ lạy cầu khẩn rồi viện dẫn mạng sống của vợ con và của chính
ông vì sẽ bị CS giết. Động lòng, nghị sĩ đưa ông ta cùng đi chung nhưng không
nói tên ông ta là ai….» (Darcourt,194 ). Theo Snepp, thì Quang nhờ sự giúp đỡ của Polgar dù
nhiều nhân viên CIA không muốn thấy mặt Quang ví Quang đã được CIA trảlương mà
đã phản bội không báo cho CIA biết kế họach rút quân của TT Thiệu. Trong cơn
hốt hoảng, Quang bỏ quên đứa con trai cùng đi với ông ở ngoài hàng rào sắt của
tòa đại sứ. (tr.392)
Trường hợp của Trần Văn Đôn thì lại rất tàn nhẫn với thuộc cấp.
Trước khi hối hả leo lên trực thăng cùng với con trai là một bác sĩ, ông Đôn
nói với đoàn tùy tùng: « các anh ở lại, các anh không có chức vụ, không có gì
nguy hiểm». Những quân nhân nầy vừa đau khổ, vừa khinh bỉ nhìn theo chiếc trực
thăng cất cánh. (Darcourt, p. 194)
Lartéguy châm biếm: «Hôm qua là Phó thủ tướng, múa may, tưởng có
thể thay thế Minh, bi đát hóa tình hình để đẩy Hương đi. Hôm nay, hối hả bỏ
chạy, không thông báo cho cả viên đại tá chánh văn phòng khiến ông này sau đó
tự tử .Ông Đôn chỉ là kẻ thừa hành của chánh phủ Pháp.» (Lartéguy , p.129)
Trong khi đó, cuộc di tản đang đến hồi lên cơn sốt.
* 10 giờ 40: từ phi trường Tân Sơn Nhứt, tướng Homer Smith, chỉ
huy trưởng DAO điện đàm
với đô đốc Noël Gayler, tư lịnh lực lượng Mỹ vùng Thái Bình Dương
ở Honolulu là phi trường TSN không còn sử dụng được cho cho phi cơ C-130 nữa.
Bộ Quốc Phòng ra lệnh cho Gayler áp dụng «Giải pháp số 4» tức di tản bằng trực
thăng.
* 12 giờ 30: 36 trực thăng vận tải khổng lồ được yểm trợ bởi các
trực thăng chiến đấu Cobra rời hàng không mẫu hạm Hancock.
* 15 giờ: Thủy quân lục chiến thiết lập 3 bãi đáp trực thăng ở khu
quân sự trong sân bay TSN.
Có 3000 người chờ đợi di tản. Trên không phận Saigon, trực thăng
của Đệ Thất hạm đội, của CIA, của Air America bay rà rà trên nóc các cao ốc tụ
điểm, lên xuống phi trường được phi cơ chiến đấu Phantoms sẵn sàng can thiệp
khi cần thiết. Lực lượng hải lục không quân được huy động như chưa bao giờ có sau
trận đổbộ Dunkerque năm 1940.
* Buổi chiều, trước cửa tòa đại sứ Mỹ có độ 20 000 người chen chúc
nhau, hàng ngàn người
đổ về bến Bạch Đằng để tìm bất cứ phương tiện nào bằng đường biển,
xe cộ vật liệu vất bừa bãi trên đường phố, người dân nhốn nháo, thất thần.
Martin áp dụng phương thức di tản người Việt: người đến trước, được di tản
trước (premier arrivé, premier servi). Đây là dịp cho các người Mỹ làm tiền các
nhà giàu người Việt bằng cách mạo nhận là thân nhân để đưa đi, bán thẻ lên tàu
của nhân viên dưới quyền cho người Việt chịu mua với giá từ 5000 đến 10 000 mỹ
kim. «Tướng Cao HH, cố vấn TT Thiệu thay vì phân phối 50 thẻ di tản cho bộ tham
mưu, đem bán mỗi vé 1000 mỹ kim» (Terzani, p.61)
* 10 giờ đêm (10 giờ sáng Washington): báo cáo từ Saigon về Ngủ
Giác Đài cho biết cuộc di tản người Mỹ ở Cần Thơ và ở Vũng Tàu tốt đẹp, trong
lúc ở Saigon hỗn loạn.
- Schlesinger điện cho Martin: còn 400 nhân viên tòa đại sứ phải
di tản hết và gấp rút.
- Martin trả lời giọng giận dữ: Hãy chỉ cho tôi phương pháp ép những người Mỹ ra đi
khi phải bỏ vợ con ở lại [vợ VN và con lai Mỹ]. Đã 4 giờ rồi, tôi đã báo cho
Gayler biết là tôi cần 30 phi vụ CH-53, [chở được 50 người, chen chúc được
70]mà bây giờ tôi chỉ có một CH-46 [nhỏ hơn]
Một giờ sau, từ tòa Bạch Ốc, Don Rumsfield yêu cầu Martin di tản
150 nhân viên IBM còn kẹt ở Saigon. Martin lồng lộn: Hãy cút
đi, để cho tôi yên ! Trong lúc đó, hải quân lục chiến hối hả tiêu
hủy hồ sơ, các trang bị máy móc mà người Mỹ đã trang bị hùng hậu từ 10 năm qua
(chỉ hồ sơ của CIA là 14 tấn).
*12 gìờ đêm: Martin điện cho Gayler: Chẳng nhận được gì 20 phút
qua, chắc tôi phải ở lại đây
ngày 30 tháng tư. Và điện cho Kissenger, Martin trêu cợt: Nếu không
suôn sẻ, tôi sẽ qua tòa đại sứ Pháp xin tá túc, và chắc tôi sẽ được ngủ trong
phòng của bà Mérillon, và hi vọng bà còn ở đó chớ không ở Paris»
(Todd p. 378).
-Ngày 30 tháng tư
* 2giờ 30 sáng, tại tòa đại sứ còn 1000 người Việt, 53 nhân viên
dân sự và 173 thủy quân lục
chiến, trong khi ở phi trường TSN còn độ 2000.
* 3 giờ 45: Martin nhìn đám người trong sân và tuyên bố: những
trực thăng đáp trên nóc tòa đại
sứ chỉ dành cho người Mỹ.
* 4 giờ 42: chiếc trực thăng mang tên Lady Ace 9 đáp xuống nóc.
Viên phi công trình lệnh của Tổng Thống: Martin phải lên phi cơ. Nếu Martin
không tuân lệnh, viên phi công còn có một lệnh khác của Gayler, tư lịnh Mỹ vùng
Thái Bình Dương là áp giải Martin.
Bước xuống HKMH Blue Ridge Đại sứ
Martin trong một tâm trạng chán nản và mệt mỏi
Theo Darcourt, Đại sứ Martin đánh giá cuộc di tản không ra gì,
muốn ở lại và chết ở đó. Với một tâm trạng rối loạn, mệt mõi (ông đã thức suốt
72 giờ liền), ôngđáp xuống hàng không mẫu hạm Blue Ridge, vào phòng đóng cửa
lại để không ai thấy nỗi thất vọng của ông.
* 7 giờ 53: chiếc trực thăng cuối cùng chở những binh sĩ cuối cùng
(thực ra còn 2 xác thủy quân lục chiến ở Tân Sơn Nhứt), yểm trợ bằng 6 trực
thăng võ trang Cobra rời tòa đại sứ. Họ ném hơi cay trên đầu 420 người Việt còn
đứng chờ bàng hoàng, ngơ ngác.
Lá cờ Mỹ đã cuốn đi mang theo nỗi thất vọng, cay đắng, oán hờn,
sung sướng, của người Việt bắt đầu một trang sử mới.
* 8 giờ sáng, tại dinh Phủ Thủ Tướng, ông Dương Văn Minh họp cùng
các nhân vật quan trọng của nội các mới như Nguyễn Văn Huyền, Vũ Văn Mẫu để
trình bày tình hình quân sự và chính trị đã đến hồi tuyệt vọng, cuộc thương
thuyết với chánh phủ Mặt Trận Cách Mạng Lâm Thời Miền Nam và Hà Nội, qua trung
gian của Pháp kể như không có trong khi thành phố Saigon đã hỗn loạn cực kỳ.
«Nhiều toán quân sĩ VNCH lang thang trong thành phố, họ vứt bỏ vũ
khí, quân phục. Bọn cướp bóc tràn ngập trong thành phố, súng bắn loạn xạ»
(Todd, p.390).
* 9g30: sau phiên họp, nội các Dương Văn Minh đến dinh Độc Lập dự
định theo chương trình
để bàn giao với Nguyễn Văn Hảo, Phó Thủ tướng trong nội các Nguyễn
Bá Cẩn, nhưng cuộc bàn giao không xảy ra mà họ chờ quân giải phóng đến.
*11g30: «tiếng chân người vang dội trong đại sảnh, có cả tiếng khua
vũ khí và tiếng đạn lên nòng. Rồi tiếng hô từ phía đại sảnh: Mọi người
đi ra khỏi phòng… Người bước ra khỏi phòng trước tiên là tổng thống
DVM… Có tiếng hô to: Mọi người giơ hai tay lên. Ông Minh,
ông Mẫu và tôi cùng mọi người đi sau đều nhất loạt giơ tay…Một người bộ đội cấp
chỉ huy nói với ông Minh: Anh hãy viết một bản tuyên bố đầu hàng. Ông
Minh trả lời rằng sáng nay ông đã có một tuyên bố trao quyền rồi. Viên chỉ huy
nói: Anh chẳng có gì để trao. Anh chỉ có thể tuyên bố đầu hàng…Ông
Minh vẫn đứng yên lặng.
Viên chỉ huy yêu cầu ông Minh đi đến đài phát thanh để thảo và đọc
bản tuyên bố đầu hàng…Trước khi rời dinh Độc Lập đến đài phát thanh, ông Minh
nói với vị chỉhuy bộ đội: Vợ tôi vẫn ở đây. Xin các anh bảo đảm an ninh giùm.
Viên chỉ huy đáp: Anh hãy yên tâm…Ông Minh và ông Mẫu
được đưa đến đài phát thanh Saigon trên chiếc xe Jeep của bộ đội…Bản tuyên bố
đầu hàng do chính trị viên Bùi Văn Tùng thảo. Ông Minh đọc và đài phát lúc 13 giờ
30…» (LQC, tr.410-412).
Trần Văn Đôn thuật dựa vào những điều nghe biết sau 30 tháng tư (vì
ông đã ra đi): «Sau đó họ mời ông Minh, ông Mẫu và một người nữa lên xe jeep
đi. Sau này tôi biết họ chở lại gặp tướng Trần Văn Trà. Tướng Trà nói: Tôi mời
mấy ông về đây để uống trà với tôi. Tôi là Trà đây. Chiến tranh đã kết thúc
rồi. Không có ai thắng ai bại» (Đôn, tr. 485). Và cũng với luận điệu ấy, Đôn đã
viết: «Ai cứu dân chúng Saigon khỏi đổ máu. Không phải Kissinger, không phải
đại sứ Mỹ, không phảiđại sứ Pháp. Saigon không đổ máu là nhờ Dương Văn Minh».
Pierre Darcourt kể lại với nhiều chi tiết sống sượng hơn:
«Đúng 12 giờ 10 phút, ba chiếc xe tăng T54 cán dẹp những hàng rào
cản sơn màu trắng đỏ bao quanh dinh Độc Lập. Họ bắn chỉ thiên một tràng dài, ủi
sập cánh cổng lớn, cán lên trên rồi tiến thẳng vào dinh Độc Lập, cày bừa lên
các bãi cỏ trong sân. Hai chiếc xe Jeep và một chiếc xe vận tải chạy đến, qua
mặt các chiến xa. Tất cả mang cờ của Mặt Trận Giải Phóng Miên Nam…
Vị sĩ quan cao cấp được 4,5 lính CS hộ tống ập vô đại sảnh, nơi mà
tướng Dương Văn Minh đang hội họp với các người thân cận của ông ta. Thấy vị sĩ
quan đeođầy sao vàng trên cầu vai nền đỏ, Tướng Minh tưởng rằng mình đứng trước
một sĩ quan cao cấp nên nói:
- Thưa quan sáu (nguyên văn: mon général ong sau), tôi đã chờ ông
từ sáng để trao quyền cho ông.
- Mầy (nguyên tác: tu, có thể dịch là anh, nhưng mày có lẽ đúng hơn trong hoàn cảnh nầy) dám nói
là trao quyền à. Mầy chỉ là một kẻ cướp quyền và một tên bù nhìn. Mầy chẳng có
quyền nào để trao cho tao cả. Chúng tao đạt được quyền bằng khẩu súng trong
tay. Tao nói cho mày rõ là tao không phải là tướng mà chỉ là một trung tá ủy
viên chính trị. Và kể từ bây giờ, tao cấm mầy không được ngồi xuống. Gương
mặt tướng Minh co rúm lại. Giọng nói hung bạo và khinh miệt của người sĩ quan
khiến ông Minh hiểu rõ là ông đang đứng trước mặt một sĩ quan miền Bắc (nguyên
tác: Tonkinois) chớ không phải là người Mặt Trận miền Nam. Tướng Minh cố giữ
bình tỉnh và nhẹ nhàng nói:
- Chúng tôi đã có làm sẵn một bữa cơm để tiếp các ông. Có yến, súp
măng cua.
Viên trung tá xẳng giọng
- Tụi bây đang ở trong tình trạng bị bắt. Hãy giữ thức ăn tư sản
cho tụi bây. Chúng tao sẽ cho tụi bây ăn cơm dã chiến, một nắm cơm vắt và một
hôp thịt mặn.
Tất cà các tổng trưởng hiện diện đều bị khám xét và bị bắt giam
trong một phòng. Dinh Độc Lập bị tràn ngập bởi phóng viên báo chí» (Darcourt,
p.209).
* Lúc 16 giờ 30, tướng Minh được rời khỏi phòng giam lỏng ở tầng
dưới dinh Độc Lập. Một
phóng viên của nhật báo Quân đội giài phóng hỏi ông
- Ông nghĩ sao về những biến cố mà ông vừa trải qua?
Ông Minh ngập ngừng giây lát rồi trả lời với ngôn ngữ tuyên truyền
mà CS thường sử dụng:
- « Chúng tôi đã nhận thức được sức mạnh của Chánh phủ cách mạng
lâm thời và của quân đội giải phóng. Các đơn vị thiết giáp của quân giải phóng
thực hùng mạnh, quân đội Saigon không thể nào đương cự được, chỉ còn có việc đầu
hàng không điều kiện mà thôi…
Chúng tôi tin tưởng các ông, nếu không thì chúng tôi đâu có đem cả
gia đình chúng tôi đến đây để đón các ông. Các ông đã đạt được chiến thắng một
cách nhanh chóng, chúng tôi vô cùng sung sướng. Chúng tôi và gia đình chúng tôi
bình yên, thật là may mắn » (Darcourt, tr. 213)
Và sau đó, các nhân vật trong nội các cuối cùng của VNCH cũng lưu
hậu thế với những câu nói bất hủ.
* Ông Nguyễn Văn Huyền thì dè dặt hơn: «Chúng tôi
không chấp nhận cuộc di tản. Là người VN, mình phải ở lại sống trên quê hương
mình chớ»
* Ông Vũ văn Mẫu thì hớn hở, nhảy nhót: «Các anh
đánh hay lắm. Tôi rất sung sướng đã đuổi được người Mỹ ra đi. Bây giờ thì chúng
ta với chúng ta mà thôi. Sau khi nhắc lại quê ông ở quận Thường
Tín, phía Nam Hà Nội và chuyện ông cạo đầu phản đối ông Diệm, ông nói: Kể từ hôm
nay thì tôi sẽ để tóc lại được rồi»
* Ông Nguyễn Văn Hảo đưa tay lên và nói lớn:«Các anh
thật đáng phục vì đã đánh bại được nước Mỹ, chúng tôi hi vọng là tài nguyên của
đất nước sẽ được sửdụng để xây dựng đất nước chúng ta». (Darcourt,
tr.213)
Trong khi các chánh khách 30 của VNCH đầu hàng CS và tranh nhau
nịnh bợ chánh quyền mới, trên khắp các nẽo đường đất nước, quân nhân các cấp
phẩn uất, nhiều tướng tá tử tiết thay vì đầu hàng. Chỉ cần đan kể một vài anh
hùng liệt sĩ: các tướng Nguyễn Khoa Nam, Phạm văn Phú, Lê Văn Hưng, Lê Nguyên Vỹ,
Trần văn Hai…
Trong lịch sử chiến tranh, không có cuộc chiến nào để lại một khối
lượng sử liệu khổng lồ, đa dạng và phức tạp như chiến tranh VN. Tại Hoa Kỳ, có
ít nhất 10 đại học danh tiếng có bộ sách về chiến tranh VN trong đó trung tâm
Texas Tech University được xem như quan trọng nhất.Ghi lại những biến cố chỉ trong
tháng 4 từmột số tài liệu mà độc giả có thể tìm được dễ dàng trong các thư viện
công cộng hay nhà sách, chúng tôi muốn nói lên bản chất dị biệt của các tài
liệu qua các nguồn tư liệu và tác giả.
Sự dị biệt ít nhiều và bàng bạc qua gần 20 tài lệu mà chúng tôi
tham khảo, nhưng chúng tôi chú tâm đặc biệt vào hai biên khảo-hồi ký căn bản
của biến cố tháng tư viết bởi hai cộng sự viên quan trọng của Tổng Thống Thiệu
là Đại Tướng Cao Văn Viên,Tổng Tham Mưu Trưởng quân lực VNCH và Tiến sĩ Nguyễn
Tiến Hưng, cốvấn đặc biệt của Tổng thống. Chúng tôi vô cùng ngạc nhiên, qua lời
văn tuy ôn tồn nhưng quyết liệt, ông Viên đã dành một chương «Lời bạt» thêm vào
quyển quân sử The final Collapse do ông soạn thảo
cho Trung Tâm Quân sử lục quân Hoa Kỳ phổ biến hạn chế năm 1983
và Nguyễn Kỳ Phong chuyển ngữ vời tựa đề làNhững ngày cuối cùng của
VNCH, xuất bản năm 2003, để làm sáng tỏ và đính chính một số
sai lầm, thiếu sót viết về ông và về Bộ Tổng Tham Mưu do ông điều khiển mà tiến
sĩ Nguyễn Tiến Hưng đã viết trong quyển The Palace File xuất bản năm 1986
và ấn bản Việt ngữ tựa là Hồ sơ mật Dinh Độc Lập xuất bản năm
1987.
Đa số độc giả cũng như chúng tôi không am tường các chuyện bí mật
chính trị và quân sự, cho nên chuyện đúng hay sai là chuyện của các chuyên gia
và nhà sửhọc, do đó khi chúng ta đọc những tài liệu loại nầy, chúng ta thường
đọc bằng cảm tính qua văn phong của tác giả. Chúng ta có khuynh hướng nghiêng
(tin)vềngười bị chỉ trích, bị hạ bệ và phản kháng (không tin) người dao to búa
lớn, đại loại, tôi đã khuyên tổng thống chuyện nầy, can thiệp với ông đại sứ
nọ… Đó là điều mà chúng tôi gọi là đem tâm tình đọc lịch sử.
Ngoài việc viết thiếu trung thực lịch sử vì vô tình hay cố ý, một
hiện tượng khác còn trầm trọng hơn là việc ngụy tạo tài liệu đã đưa độc giả đến
những hiểu biết sai lệch mà điển hình là vụ quyển sách Saigon
et moi của cựu đại sứ Pháp Jean-Marie Mérillon mà từ hàng chục
năm nay, cứ đến tháng tư thì tái xuất hiện nhưmột thứ «cá tháng tư» (poisson
d’Avril).
Nhiều sách báo đã phổ biến, trích dẫn «con cá tháng tư» này
như chuyện thật.
Cách đây một tháng, nhiều bạn hữu lại chuyển cho chúng tôi qua
internet một bài đọc dưới dạng mp3 về một chương sách tưởng tượng trong quyển
sách ngụy tạo Saigon et moi. Đại ý, Jean-Marie
Mérillon đã dàn xếp được với Mặt Trận Giải Phóng để chấp nhận
Dương Văn Minh thành lập một chánh phủ liên hiệp để thoát khỏi gọng kềm của CS
miền Bắc nhưng Dương Văn Minh đã phản bội lời hứa, thay vì đi Trảng Bàng để gặp
Trần Văn Trà trong toan tính này thì lại đầu hàng với hi vọng sự nhượng bộ này
sẽ được CS tưởng thưởng.
Ngoài ra, bài đọc (từ bài viết) còn có những chi tiết giựt gân,
cảm động, đánh trúng cái khát vọng của người di tản không muốn VNCH chết một
cách tức tửi và oán ghét những chánh khách bất tài, xôi thịt, hèn hạ.
Tác giả của nguồn tin này (ông Vũ hải Hồ) cho là quyển sách xuất
bản năm 1985, được ra mắt ở
khách sạn La Fayette với sự chứng kiến của Tổng Thống Valéry
Giscard d’Estaing và nhiều nhân vật chính trị quan trọng của Pháp, nhưng sau đó
mấy ngày thì bịBộ ngoại giao tịch thu.
Lối giải thích quả tình phi lý vì chế độ kiểm duyệt sách báo ở các
quốc gia Tây Phương là chuyện không có, còn chuyện thu hồi một quyển sách hồi
ký đã xuất bản lại còn là chuyện thần thoại hơn.
Ngoài ra, trong việc phát triển bộ sách tiếng Việt và sách ngoại ngữ
viết về VN cho thư viện thành phố Montréal, chúng tôi có theo dõi trong nhiều
năm thời ấy trong các thư mục các nhà xuất bản trên thế giới như Books in
prints, Livres disponibles để mua cho thư viện, nhưng không hề thấy
tên quyển sách này.
Đểchứng minh quyển Saigon et moi không có, GS Tiến sĩ
Sửhọc Hoàng ngọc Thành và Bà Thân thị Nhân Đức trong tác phẩm «Những
ngày cuối cùng của Ngô Đình Diệm», xuất bản năm 1994, nơi trang622
và 623 (trang 574 ấn bản năm 1996, phụbản trong ấn bản năm 1999) có nói rõ
vềvấn đềnày.
Nguyên là ông Hoàng Ngọc Thành khi sang Paris năm 1989 không tìm
mua được quyển Saigon et moi, nên có liên lạc với
ông Mérillon, lúc ấy làm đại sứởMoscouđểhỏi rõ . Ông Mérillon đã phúc đáp GS
Thành nguyên văn nhưsau:
République Française
Ambassade de FranceEn URSS
L’Ambassadeur
Moscou le 12th November1990
Dear Dr Thanh,
Your letter of the 22nd October has just reached me. I was most touched by it and very pleased to hear from you.
As far as the book«Saigon et moi» is concerned, I must make a point particularly clear. I did not write this book nor have I written any other about Vietnam; therefore the work that you are enquiring about is not mine. However, I am intrigued by this publication and should be glad to have any information relating to it.
Should I visit California, I shall not fail to take advantage of your kind invitation to a Vietnamese dinner.
Wishing your new book every success, I remain
Yours sincerely,
Jean- Marie Mérillon
Your letter of the 22nd October has just reached me. I was most touched by it and very pleased to hear from you.
As far as the book«Saigon et moi» is concerned, I must make a point particularly clear. I did not write this book nor have I written any other about Vietnam; therefore the work that you are enquiring about is not mine. However, I am intrigued by this publication and should be glad to have any information relating to it.
Should I visit California, I shall not fail to take advantage of your kind invitation to a Vietnamese dinner.
Wishing your new book every success, I remain
Yours sincerely,
Jean- Marie Mérillon
Khi viết biên khảo, các tác giả có khuynh hướng sử dụng những tài
liệu trích dẫn từ những tài liệu tham khảo cấp hai hay cấp ba mà không phải từ
tài liệu gốc. Sựsai lầm, nếu có, tuy đáng tiếc, nhưng vẫn có thể hiểu được vì
lẽ chúng ta không thể có được trong tay tất cà các tài liệu.
Tuy nhiên, khi đã biết một tài liệu ngụy tạo mà vẫn cố tình sử
dụng vì một ý đồ, hành động nầy không thể nào nói khác hơn là một thứ bất lương
trí thức. Đó là trường hợp bản dịch quyển « La mort du VietNam» của tướng
Vanuxem của Dương Hiếu Nghĩa với tựa là «Nước Việt Nam Cộng Hòa bị bức tử» (Nhà
xb Đại Nam, 1997) có một phụ bản đặc biệt từ trang 194 đến trang 221 đăng lại
từ tập san Đa Hiệu một chương sách ngụy tạo của Mérillon. Dịch giả
đã có lời phi lộ như sau:
«Không ai tìm thấy tung tích quyển sách này ở bất cứ thư viện nào
ở Pháp, kể cả Thư viện Quốc Gia Pháp ở Paris. Cũng như sau nầy, chính ông
Mérillon đã đính chánh ông không phải là tác giả của quyển Saigon et
moi hay bất cứ quyển nào khác viết về VN» (sđd, tr. 195).
Đã biết như vậy mà vẫn tiếp tục phổ biến một tài liệu ngụy tạo,
chúng tôi không hiểu tác giả có ngụ ý gì nếu không đã mất trí.
Kết luận
Hôm nay, đọc lại những tài liệu cũ về những ngày cuối cùng của
Việt Nam Cộng Hòa, chúng tôi không giữ được nỗi bàng hoàng nhớ lại nỗi kinh
hoàng của những ngày quốc biến của 34 năm trước. Người đọc lịch sử, nhất là
lịch sử của tổ quốc mình không thể vô tâm như người ngồi ở ga xe nhìn đoàn tàu
đi qua, mà tùy theo cảnh ngộ, người đọc xúc động với biến cố hay suy nghĩ về
biến cố. Chẳng phải là sử gia cũng không phải là chính trị gia, đa số người
Việt ngoài nước lẫn trong nước đều cảm nhận nỗi bất hạnh của quê hương mình và
dân tộc mình đã từ hơn một thế kỷ qua, luôn là mảnh đất để các cường quốc ngoại
bang và các tậpđoàn người Việt, nhân danh những khẩu hiệu giả ân giả nghĩa, đã
thay phiên nhau xâu xé, thống trị và bốc lột một dân tộc không ngớt gánh chịu
điêu linh. Nhưng nghĩ cho cùng, khi con người đã quá khổ đau, con người chỉ còn
biết bám víu vào định mệnh. Nếu nước VNcó một định mệnh thì định mệnh đã bắt VN
của chúng ta gánh chịu quá nhiều bất hạnh từ 1945 đến nay mà cái bất hạnh lớn
nhất, nguy hại nhất, là chiến tranh VN đã được điều khiển bởi một Kissinger ác
cảm khinh miệt chế độ miền Nam và một tập đoàn chính trị miền Nam đa số bất
tài, thối nát.
Hôm nay, lần giở lại gần hai mươi quyển hồi ký và biên khảo tiếng
Việt và ngoại ngữ trong kho tài liệu khổng lồ về chiến tranh VN, nếu chúng tôi
được soi sáng vàđược lãnh hội nhiều sự kiện và nhận định ghi lại với sự trung
thực và thành khẩn đáng được xem như những sử liệu giá trị qua vài biên khảo và
hồi ký, chúng tôi lại cảm thấy bùng dậy nỗi bất bình với những trang giấy viết
để ca tụng mình, phe nhóm mình, nhục mạ chiến hữu mình, phe nhóm đối lập với
mình. Tác giả những thiên hồi ký khoác lác nầy đa số là những người đã vinh
thân trong cuộc chiến, và giờ đây, họ vẫn không còn biết giữ được chút liêm sĩ
còn sót lại để im tiếng, để yên cho những người may mắn thoát chết tiếp tục sống
với nỗi đau gặm nhấm. Lịch sử sẽ phải thực sự được viết lại bởi
những người viết sử công chính và những quyển hồi ký man trá nầy sẽ phải bị
chôn sâu dưới nấm mồ của những tác giả đã đánh mất lương tri.
Trong một cuộc mạn đàm với các bậc thức giả, chúng tôi có bày tỏ
nỗi ưu tư là những người di tản thế hệ chúng ta không có cơ may đọc được một
quyển chính sử viết về thời kỳ chúng ta đã sống. Một cụ già đã sang sảng trả
lời: «Biết làm chi nhiều hơn cho thêm cay đắng. Chúng ta chỉ cần biết rõ ràng
rằng chúng ta là nạn nhân của ba sự lừa dối và phản bội, thứ nhất là của đồng
minh người Mỹ của chúng ta, thứ hai là của người lãnh đạo phe quốc gia chúng ta
và thứ ba là của bọn Cộng Sản Việt Nam».
Chúng tôi chỉ biết gục đầu thấm thía lời phẩn nộ nhưng không dám
gật đầu chấp nhận thái độ buông tay.
Chúng tôi vẫn tự hỏi, có thế nào lịch sử cận đại của một dân tộc
đã phải hi sinh bao triệu người sẽ được viết bởi những kẻ lừa dối và phản bội ?
Lâm-Văn-Bé (Montréal)
Chuyển sang dạng text từ PDF files bởi ngv
Sách tham khảo chính yếu:
- Bùi Diễm. Gọng kềm lịch sử. Paris: Cơ sở xb Phạm Quang Khai, 2000.
(expanded version of The Jaws of History).
- Cao Văn Viên. Những ngày cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa, dịch
từ The Final Colllapse bởi
- Nguyễn Kỳ Phong. Centreville(Virginia):Vietnambibliography,
2003.
-Darcourt, Pierre. Vietnam, qu’as-tu fait de tes fils. — Paris:
Albatros, 1975.
- Hoàng Đống. Niên biểu lịch sử VN, thời kỳ 1945-1975.California:
Đại Nam 2005.
- Hoàng ngọc Thành & Thân thị Nhân Đức. Những ngày cuối cùng
của Tổng Thống Ngô Đình Diệm (ấn
bản lần thứ ba).- San José: Quang Vinh, 1999.
- Karnow Stanley. Vietnam: a history.–New York: Viking, 1983.
- Kissinger, Henry, Ending the VN war.–New York:
Simon&Schuster, 2003.
- Lartéguy, Jean. L’adieu à Saigon. — Paris: Presses de la Cité,
1975.
- Lý Quý Chung, Hồi ký không tên. — TpHCM: Nhà xb Trẻ, 2004.
- Nesson, Ron. It sure looks different from the inside. — Chicago:
Playboy Press, 1978.
- Nguyễn Bá Cẩn. Đất nước tôi. –San Jose: Hoa Hao Press, 2003.
- Nguyễn Khắc Ngữ. Những ngày cuối cùng của VNCH. — Montréal: Tủ
sách Nghiên cứu Sử Địa,1979.
- Nguyễn Hữu An. Chiến trường mới. – Hanoi: Nxb Quân đội nhân dân,
2001.
- Nguyễn Tiến Hưng. Khi đồng minh tháo chạy. – San Jose: Cơ sở xb
Hứa Chấn Minh, 2005.
- Nguyễn Tiến Hưng. Hồ sơ mật Dinh Độc Lập.
- Snepp, Frank. Sauve qui peut.– Paris: Éditions Balland, 1979
(dịch từ: Decent Interval.– New York:Random House, 1977).
- Terzani, Tiziano. La chute de Saigon, 30 avril 1975. – Paris:
Fayard, 1977.
- Todd, Olivier. La chute de Saigon: Cruel Avril. Paris: Laffont,
2005.
- Trần Đông Phong. Việt Nam Cộng Hòa, 10 ngày cuối cùng. –
California: Nam Việt, 2006.
- Trần Văn Đôn. Việt Nam nhân chứng. — California: Xuân Thu, 1989.
No comments:
Post a Comment