Sông Tương
Ai còn nhớ bờ bến
sông Tương
Ai có biết cô gài
ngồi riêng
Tóc dài lả lướt
sau đôi vai
Mùi hương thoang
thoáng tỏa bốn phương
Còn đâu nữa như mê
như tỉnh
Những tình tứ
hương lửa ba sinh
Hàt sao cho hết
lòng vấn vương
Đêm đêm theo
dòng nước sông Tương
cn,03/14/2017
From: T Nguyen <
Sent: Tuesday, March 14, 2017 1:51 PM
Subject: HOÀI NIỆM THẦY VĂN GIÃNG, tac' gia? ''AI VỀ SÔNG TƯƠNG''
Sent: Tuesday, March 14, 2017 1:51 PM
Subject: HOÀI NIỆM THẦY VĂN GIÃNG, tac' gia? ''AI VỀ SÔNG TƯƠNG''
On Tuesday, March 14, 2017 6:51 AM, Thi Phia Tran wrote:
HOÀI
NIỆM THẦY VĂN GIÃNG--Tác gỉa không tên
AI VỀ SÔNG TƯƠNG
Thầy Ngô Văn Giảng vừa tạ thế tại Úc, hưởng thọ 89 tuổi. Tin buồn loan
ra, tôi bâng khuâng nhớ về 54 năm trước, năm 1959, thầy là giáo sư âm nhạc của
chúng tôi tại trường Hàm Nghi, Huế. Thuở ấy, thầy mới ngoài 30, dáng điệu
phương cường, đi chiếc xe gắn máy hiệu Zunndapp của Đức nổ bịch bịch nổi bật cả
sân trường.
Tôi còn nhớ ngày đầu tiên khi Thầy bước vào lớp đệ Thất B1 của chúng
tôi, trò Trương Phước Ni bắt tay làm loa đứng dậy chào thầy bằng câu: “Đường
trường xa muôn vó câu bay dập dồn…” Thầy cười rất tươi cho cả lớp, nhưng
cũng lâp nghiêm nhìn chú học trò rắn mắt ở dãy bàn cuối lớp. Đây là câu mở đầu
của hùng ca Lục
Quân Việt Nam, một trong những bài ca mang tiết điệu hành khúc, hùng tráng
nổi tiếng nhất của Thầy – nhạc sĩ Văn
Giảng – như Thúc
Quân, Đêm Mê Linh, Qua Đèo, Nhảy Lửa…
Thầy
đã là một nhạc sĩ thành danh, nổi tiếng trong cả nước, trước khi trở thành giáo
sư âm nhạc của trường Hàm Nghi. Nhưng nhiều người chỉ biết Văn Giảng qua
những bản hùng ca. Bởi thế, vào mấy năm đầu thập niên 1950, khi bản nhạc để đời
của Thầy, Ai Về Sông Tương, trở thành một bản tình ca thời danh với
tên tác giả là Thông Đạt có lẽ ít ai để ý rằng, trong góc
khuất của những tâm hồn nghệ sĩ thì bên cạnh nhịp đời hào hùng vươn tới vẫn có
tiếng thở dài chan chứa điệu buồn.
Hai niên khóa học với nhạc sĩ Văn Giảng, tôi thích học nhạc thì ít mà mê
Thầy kể chuyện thì nhiều. Cứ mỗi cuối giờ, Thầy có một câu chuyện kể về các
giai thoại âm nhạc. Thích nhất là những chuyện thâm cung bí sử của những nghệ
sĩ âm nhạc tài hoa. Chẳng hạn như bản nhạc Ngày Về của Hoàng
Giác, Thầy xướng âm lên và phân tích cho chúng tôi nghe rằng, tiết điệu của
bài ca đó có những trường canh trãi dài xa vắng và âm hưởng thương nhớ quặn
lòng “rất Tây Phương” vì đây là bản nhạc do một người lính Đức trong đội quân
viễn chinh của Pháp viết lên giai điệu. Nhạc sĩ Hoàng Giác chỉ soạn ca từ… Hoặc
như bản nhạc Trầm Hương Đốtcủa Bửu Bác, xuất xứ là
bài Hải Triều Âm. Đây là một trong những bản nhạc nghi lễ đầu tiên
dùng trong sinh hoạt chùa viện đã bứt phá từ giai điệu ngũ âm “Đăng Đàn Cung”
để tiến lên bát cung của phương Tây. Bởi vậy mà ảnh hưởng âm điệu “thánh ca nhà
thờ” như âm vang trầm trầm không cao không thấp quá tầm uyển thanh của organ
thể hiện rất rõ trong giai điệu của bản nhạc.
Nhưng
thú vị hơn cả là lịch sử bản nhạc Ai Về Sông Tương. Thầy kể rằng,
thời trai trẻ, Thầy ở Thành Nội và yêu một cô gái ở Kim Long – Kim Long
có gái mỹ miều; trẫm thương, trẫm nhớ, trẫm liều trẫm đi… mà – nhưng duyên
không thành vì gia đình nho phong của cô bé không có cái nhìn thiện cảm với đời
nghệ sĩ, nhất là nghệ sĩ trong ngành âm nhạc, xướng ca… Thế là chia tay và cô
bé đi lấy chồng!
Rồi một hôm, Thầy vào rạp Xi-nê Tân Tân, gần cầu Trường Tiền bên bờ Bắc
sông Hương để coi phim “Bé Nhà Trời” (Les enfants du paradis). Ngay
trước mắt Thầy, ờ hàng ghế trước có một cô Bé tóc dài. Tuy nhìn không rõ mặt
nhưng từ dáng dấp đến hương tóc thoang thoảng mùi hoa Ngâu của người thiếu nữ
đã làm sống lại hình ảnh người tình Kim Long “ngày xưa Hoàng Thị” ấy. Thầy bị
xúc động đến nỗi không thể còn ngồi lại lâu hơn trong rạp chiếu bóng để xem
phim, nên vội vàng ra khỏi rạp. Thầy cỡi chiếc xe đạp Dura Mercier của Thầy và
đạp xe dọc theo bờ sông Hương để vô cửa Thượng Tứ vào nhà ở Thành Nội. Thoáng
chốc dòng sông Hương hiện ra như là dòng sông Tương chia biệt trong truyện tình
cổ thư Trung Quốc. Thầy vừa đến nhà là dựng ngay chiếc xe đạp ngoài hiên, đi
nhanh vào nhà và vội vã sáng tác bản nhạc bằng tất cả sự hoài niệm và háo hức
nghệ thuật với sự chấn động dị thường như phép lạ hóa thân. Bản nhạc Ai
Về Sông Tương được viết ra trong vòng mười lăm phút!
Sau
đó, Thầy bí mật ký tên là Thông Đạt và chép một bản gởi ra đài
phát thanh toàn quốc là đài Pháp Á ở Hà Nội. Mấy hôm sau, Mạnh Phát vừa là nhạc
sĩ vừa là ca sĩ đã hát bản Ai
Về Sông Tương lần đầu trên đài Pháp Á Hà Nội. Bản nhạc sáng tác năm
1949 đã nhanh chóng nổi tiếng trong toàn cả nước. Đã trải qua hơn 60 năm, những
mối tình đã cũ, những hẹn hò thuở răng trắng tóc xanh đã thành “răng long đầu
bạc”. Nhưng Ai Về Sông Tương vẫn mới như thời gian là nước
chảy qua cầu, vẫn còn là tiếng lòng tình tự của những đôi tình nhân ước hẹn
không thành. Bản nhạc với một giai điệu thướt tha lãng mạn, lời lẽ đậm nét hoài
niệm trữ tình làm dậy lên nguồn tình cảm sướt mướt, mượt mà mà rất “sang” ấy
như một dòng suối tươi tắn, mát dịu trong một hoàn cảnh tạm hồi sinh sau cuộc
chiến:
Ai có
về bên bến sông Tương
Nhắn người duyên dáng tôi thương
Bao
ngày ôm mối tơ vương
Tháng với ngày mơ nhuốm đau thương
Tâm hồn mơ bóng em luôn
Mong vài lời em ngập hương...
Cũng theo lời Thầy vui vui kể chuyện rằng, Mạnh Phát, là bạn thân của
Văn Giảng, đã nhờ Văn Giảng đến nhà ấn hành tân nhạc gần như độc nhất thời bấy
giờ là nhà xuất bản Tinh Hoa ở Huế do ông Tăng Duyệt làm giám Đốc để hỏi cho ra
Thông Đạt là ai ngay sau khi bản nhạc phát trên đài Pháp Á. Thầy tảng lờ như
không hay biết. Nhưng mãi đến ba tháng sau thì tông tích của Thông Đạt mới được
tiết lộ. “Mạnh Phát vô Huế chơi khi biết tui là Thông Đạt, hắn đấm lưng tui
thùi thụi như rứa thì thôi!” Thầy Văn Giảng cười vui kể lại.
Một lần trong giờ học nhạc, trò Nguyễn Xuân Huế là tay đọc tiểu thuyết
đệ nhất trong lớp hỏi Thầy: “Thưa Thầy, tại sao mình có sông Hương, mình cũng
có Hương giang đầu, Hương giang vỹ mà Thầy lại phải vay mượn sông Tương của Tàu
như rứa ạ?”. Thầy trả lời, đại khái là tại sông Hương chưa có chuyện tình nào
nổi tiếng trong tình sử như sông Tương. Tương Giang là một con sông ở Trung
Hoa, bắt nguồn từ núi Duyên Hải, chảy qua Hồ Nam dài hơn hai ngàn dặm. Còn ý
“ai về sông Tương” của Thầy trong bản nhạc là bắt nguồn từ cảm hứng của bốn câu
thơ tình sử trích từ khúc Trường Tương Tư của nàng Lương Ý,
đời Hậu Chu. Nàng và Lý Sinh yêu nhau say đắm nhưng phải chia tay. Nàng làm thơ
mong gửi gấm nguồn tâm sự đau khổ khi phải xa cách người yêu:
Quân tại Tương Giang đầu
Thiếp tại Tương Giang vĩ
Tương tư bất tương kiến
Đồng ẩm Tương Giang thủy
(Chàng ở đầu sông Tương
Thiếp
ở cuối sông Tương
Nhớ nhau không thấy mặt
Cùng uống nước sông Tương)
Trong
những ngày phong trào đấu tranh Phật giáo xẩy ra tại Huế năm 1963, có lần tôi
gặp Thầy trên con đò Thừa Phủ, Thầy nói là lên chùa Từ Đàm nhưng đường sá trở
ngại phải đi đò sang sông rồi đi bộ lên chùa. Khi đò ra giữa sông tôi nghịch
ngợm hỏi Thầy: “Thưa Thầy, đã có ai về sông Tương chưa ạ?” Thầy cũng cười đáp
lại: “Đối với tôi thì sông Tương là sông Hương. Tôi chỉ mong cuối đời
về lại con sông này…” Ngày đó và bây giờ, tôi tự hiểu khái niệm “cuối
đời về lại” của Thầy là linh khí của con người luân lưu sống giữa hồn thiêng
sông núi. Nếu vậy, thì hôm nay Thầy đã về sông Tương.
Đó là lần cuối tôi gặp Thầy Văn Giảng. Nhưng sau đó không lâu, tôi lại
được “gặp” Thầy qua một tác phẩm mang tính chất đạo ca của khách hành hương mà
tôi đã gặp trên chuyến đò Thừa Phủ: Nhạc phẩm Từ
Đàm Quê Hương Tôi. Lần nầy Thầy để tên tác giả là Nguyên Thông.
Bản nhạc tuy được liệt vào thể loại nhạc tôn giáo nhưng cả giai điệu lẫn ca từ
đã vượt ra ngoài khuôn khổ giới hạn của văn hóa chùa viện. Cảm quan nghệ thuật
sáng tạo của người nhạc sĩ tài hoa đã dung hóa được tính chất tráng liệt của
hùng ca như Thúc
Quân, Lục Quân Việt Nam, làn điệu mượt mà lãng mạn của tình ca như Ai
Về Sông Tương, Ai Đưa Con Sáo Sang Sông và biểu tượng thiêng liêng,
siêu thoát của đạo ca như Mừng Đản Sanh, Ca Tỳ La Vệ, Từ Đàm Quê Hương
Tôi:
Quê hương tôi miền Trung
Sớm hôm chuông chùa nhẹ rung
Tiếng muôn đời hồn tổ tiên kiêu hùng
Ôi uy nghiêm bóng chùa Từ Đàm
Nơi yêu thương phát nguồn đạo vàng
Qua
bao giông tố chùa Từ Đàm tôi vẫn còn…
Những nhạc sĩ tài hoa của nền tân cổ nhạc Việt Nam thuộc thế hệ Chiến
Tranh Việt Nam lần lượt ra đi. Nghệ thuật và người nghệ sĩ đến với đời và ra đi
không bằng tấm vé một chiều. Tác phẩm để lại cho thế hệ kế thừa sẽ làm cho con
đường sáng tạo nghệ thuật rộn ràng và phong quang hơn. Với hơn 50 tác phẩm âm
nhạc phong phú giá trị nghệ thuật để lại cho đời, nhạc sĩ Văn Giảng đã cống
hiến phần tinh hoa lớn nhất của đời mình vì lợi lạc của tha nhân mà các nhà tu
Phật giáo thường gọi là “công hạnh viên thành”. Thế hệ đàn em, học trò như
chúng tôi có điểm tựa tinh thần đáng tự hào cùng tấm lòng trân trọng trong giờ
phút tưởng niệm và bái biệt Thầy.
Không
rõ tác giả
--
__._,_.___
No comments:
Post a Comment