VC hen voi giac, ac voi dan.
Muon chong TC, phai dep VC
Tinh khôn ở đâu ?
Trần Đỗ Cung
Một bạn thân ở Montréal Canada vừa gửi cho tôi cuốn Pháp Ngữ Souvenirs et Pensées, viết bởi Bà Bác Sỹ Nguyễn Thị Đảnh và được Bác Sỹ Từ Uyên chuyển qua Việt Ngữ.
Bạn lại khuyến khích tôi nếu có thì giờ thì chuyển qua Anh Ngữ theo sự mong muốn của tác giả. Sau khi đọc tôi thấy đặc biệt ở chỗ tù cải tạo này là một chuyên viên tài chính ngân hàng, khác hẳn trường hợp thường thấy của các sỹ quan trong quân lực.
Ông Thảo bị đầy đọa sáu năm rưỡi trời để hy vọng moi các hiểu biết của ông về tài sản Ngân Hàng Quốc Gia. Bà Bác Sỹ Đảnh nay định cư tại Oslo Na Uy là một phụ nữ miền Nam, Tây học. Phu quân Đỗ Văn Thảo cũng là người Nam, sinh ngày 21 tháng 8 năm 1927 tại Gò Công. Sau khi tốt nghiệp Đại Học tại Pháp ông Thảo đã về làm việc tại Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam từ tháng Tư năm 1955.
Ông đã giữ chức Giám Đốc Nha Ngoại Viện rồi Phó Tổng Thanh Tra Ngân Hàng Quốc Gia cho đến ngày 30 tháng Tư năm 1975. Ông bị đi tù cải tạo tháng 6 năm 1975 rồi bị lưu đầy ra Bắc cho đến tháng 9 năm 1980. Đến tỵ nạn chính trị tại Bergen, Na Uy tháng 12 năm 1981, ông tạ thế tháng Giêng năm 2001 tại Oslo, Na Uy vì trụy tim.
Câu chuyện Bà Bác Sỹ Đảnh kể lại về sự tù tội Việt Cộng của đức lang quân cho thấy đặc biệt có ba khía cạnh. Là người Nam thuần túy, là chuyên viên được huấn luyện công phu và chưa bao giờ liên quan đến quân đội.
Nhưng Việt Cộng cưỡng chiếm miền Nam đã hành xử như quân xâm lăng, cầm tù những chuyên viên rồi vơ vét của cải đem về như Phát Xít Đức Quốc Xã khi tiến vào Paris. Sự thiển cận của họ đã đưa đến sự kiệt quệ tột cùng cho đến bây giờ vẫn chưa ngóc đầu lên ngang hàng với các nước lân bang.
Nay mở miệng mời chào người Việt nước ngoài trở về đem chất xám giúp nước thì thử hỏi có nghe được không?
Câu chuyện do bà Đảnh kể lại trong thời kỳ gia đình bị kẹt vì lỡ chuyến ra đi của tầu Việt Nam Thương Tín. Những ôn tưởng chỉ được ông Thảo thỉnh thoảng nhắc đến vì ông không muốn trải qua một lần nữa những hình ảnh dã man mà ông đã trải qua.
Bà hết sức căm nước Pháp đã hùa theo Việt Cộng chỉ vì thù Mỹ đã không giúp họ xâm chiếm lại xứ Việt Nam trù phú sau khi Thế Chiến II chấm dứt. Bất hạnh cho Việt Nam, trong khi cộng sản Nga Hoa chỉ ngầm giúp Hà Nội thì Mỹ ồn ào đổ quân vào làm mất chính nghĩa của chúng ta đã bị nhóm thiên tả và CS cơ hội bóp méo thành chiến tranh chống Mỹ cứu nước.
Bà viết để vinh danh những ai đã trải qua địa ngục trần gian tù cải tạo Việt Cộng.Và cũng để nói lên lời an ủi tới những ai đã bị phân tán ra bốn phương trời, làm cho không những mất gốc mà còn mất cả cá tính nữa.
Bà cùng gia đình bị kẹt lại trong cư xá sang trọng của Ngân Hàng nằm trên đường nhỏ hướng ra cầu xa lộ mới. Bà thấy rõ sự chiến đấu dũng cảm của một Trung Đội Nhẩy Dù với 20 binh sĩ chỉ huy bởi một Thiếu Úy trẻ măng có vẻ mới ra trường.
Nhìn các quân nhân rắn chắc, nét mặt kiêu hùng và người chỉ huy Thiếu Úy trẻ nhưng chững chạc, bà đã chia xẻ đồ ăn với họ và có cảm tưởng đã cùng họ chiến đấu. Cuối cùng tất cả quân sỹ đã bị hy sinh một cách tức tưởi.
Bà nói: “Ai dám bảo là quân ta không chịu chiến đấu”? Trong khi ấy những phát súng lẻ tẻ của du kích Mặt Trận Giải Phóng quấy rối giữa những tiếng nổ đại pháo.
Ngoài đường một sự hỗn loạn không tưởng tượng được khi bọn hôi của nhào vào cácnhà vắng chủ và du kích Việt Cộng ngày càng hung hăng tàn ác.Rồi ông Thảo phải ra trình diện theo lệnh của quân quản Sài Gòn.
Ông thật thà nghĩ rằng vì vợ chồng ông là các chuyên gia thuần túy nên chính thể mới sẽ cần đến những bàn tay xây dựng lại quốc gia. Ông nói với vợ
rằng, “Nếu họ không ưa chúng ta thì họ cũng không thể xử tệ với chúng ta. Họ không thể giết hết tất cả”.
Một Pol Pot đã làm như vậy,nhưng họ đã thấy là không có lợi gì hết.Tuynhiên Việt Cộng đã làm những việc tệ hại hơn nhiều. “Chúng tôi không hiểu rõ cái thực tế của cộng sản.
Chúng tôi đã nuôi ảo tưởng rằng cộng sản là một xác tín cao đẹp. Song đem cái xác tín ấy vào đời sống con người bằng võ lực đã làm mất hào quang lý tưởng và thơ mộng. Và như vậy nó trở nên tầmthường, bẩn thỉu, ích kỷ và man rợ”.
Ngày 15 tháng Sáu năm 1975 bà Đảnh đã chở ông Thảo và các con trên chiếc xe VWVariant đến một ngôi trường bỏ không gần Sở Thú. Ông gập một bạn cũ cùng đi trình diện nên thấy đỡ cô đơn hơn. “Khi chia tay tôi nhìn thấy trong ánh mắt anh ấy sự tiếc nuối, lo âu và tình yêu đằm thắm. Anh chưa biết rằng sự chia tay này kéo giài cả hơn sáu năm rưỡi trời.
Ánh mắt sâu thẳm ấy theo tôi mãi mãi ngày đêm và không bao giờ tôi quên được. Hầu hết các gia đình đều chịu hoàn cảnh như vậy, không cha, không chồng. Tôi may mắn thuộc thành phần không làm điều gì sai quấy và được đồng sự mến, không phải loại có nợ máu lớn với nhân dân, nên được gọi đi cải tạo trong một tuần lễ”.
Rồi xẩy ra việc vơ vét toàn diện. Tại Bộ Giáo Dục cũ không một cái gì là bị bỏ sót,cục tẩy, cái bút BIC, giấy, tập vở đều bị thu gom chở về Bắc trên các xe vận tải nhà binh đầy ắp. Những cán bộ miền Nam thấy bất bình, “Chúng ta bây giờ thống nhất vậy của cải miền Nam phải được để lại miền Nam vì ở đây cũng cần các phương tiện để xây dựng lại chớ”?
Bà nói: “Khi tôi nghĩ dến những đứa con miền Nam đã gia nhập MTGPMN tôi không khỏi khinh bỉ và tội nghiệp. Một số ít có thể là những người yêu nước thật sự tuy nuôi một lý tưởng ngu đần để bị VC xập bẫy. Họ đã làm gì để giúp đỡ quê cha đất tổ?
Hay là giúp tay xa lìa sự trù phú, sự phồn thịnh và cả tự do nữa”?
Các cán bộ cộng sản thường vào tư gia mượn những thứ cần dùng. Họ được đối xử tử tế nhã nhặn. Nhưng một hôm một cấp chỉ huy vào nhà. Bà lịch sự rót một cốc nước mát mời thì ông ta túm lấy vai đứa con trai nhỏ bắt húp một ngụm trước. “Tôi đâu có ngu gì mà đầu độc họ ngay tại nhà tôi? Họ ra vào nhiều lần và tôi cảm thấy họ muốn cái gì, có lẽ muốn cái nhà của tôi? Ý tưởng đào thoát manh nha trong đầu tôi. Với sự hiện diện của báo chí và những quan sát viên, nên VC còn tỏ ra dè dặt, không dám ra mặt tham lam áp chế dân chúng. Cũng may là chẳng bao lâu sau cả đoàn quân CS bị chuyển qua Cao Mên”.
Một tháng sau khi trình diện học tập cải tạo không thấy một ai được về nhà. Cậu con trai lớn luôn luôn đạp xe quanh ngôi trường mà cha cậu trình diện thì thấy vắng tanh. Khi đem người trưởng gia đình đi thì tạo ra một không khí bất an và đạt được hai mục đích, vô hiệu hóa người chồng người cha và cùng một lúc kiểm soát được mọi người trong gia đình. Nhiều gia đình chỉ trông cậy vào đồng lương cha chồng đem về hàng tháng thì bây giờ túng quẫn. Và sau hai lần đổi tiền, những người giầu có nay thành nghèo và những ai đã nghèo nay lại càng xơ xác. Sau một tháng quy định chẳng ai được trở về. Thỉnh thoảng có một vài người có lẽ thuộc loại có móc nối hay không nợ máu thấy lẻ tẻ trở về. Một người quen cho biết là chồng bà bị chuyển tới trại Long Thành.
Một loạt xe vận tải nhà binh đến chở các tù nhân đi. Họ không biết là đi tới đâu. Trong đêm tối đến một khu rừng mà họ không biết là Long Thành và bị lùa vào mấy gian trại bằng tre lá và lèn chặt như cá hộp. Ngay sáng hôm sau tù phải bắt tay xây cất các trại giam khác cho những người tới sau.
Có cảm tưởng là Việt Cộng không có kế hoạch gì cả,chỉ thực hiện theo nhu cầu xẩy đến và tù nhân phải dựng lấy trại giam cho mình. Mục tiêu quan trọng lúc đó là gom lại và vô hiệu hóa các thành viên của chế độ cũ. Mục đích thứ hai là cách ly quân đội với hành chính.Các cấp hành chính do cán bộ canh giữ còn
các quân nhân bị đặt dưới bộ đội và các sỹ quan Việt Cộng canh chừng. Chỗ nào cũng là rừng nên không ai biết được bao nhiêu trại tù rải rác ở đâu.
Mỗi nhà giam có thể lèn chừng 50 tù, mỗi người có được chừng 80 phân để nằm ngủ ngay trên mặt đất. Về đêm phải chịu hơi lạnh của núi rừng và khi mưa phải chịu ướt át. Bà hỏi chồng có nhớ đến cái mùng mà anh cẩn thận gói theo. Anh nói, “Trong hoàn cảnh ấy mùng đâu có ích gì và một anh bạn khéo tay đã giúp cắt ra may thành một áo trấn thủ dầy dặn với nhiều lớp vải mùng khiến cho
anh qua được cảnh rét mướt”! Mỗi đêm có điểm danh trước khi cho vào đi ngủ sau khi cán bộ đã khóa chặt nhà tù.Đồ ăn thật đơn sơ nhưng còn có gạo nên
không bị đói. Cơm được nấu trong các chảo to nên có nhiều cháy là một món ngon mà đứa bé con cô cán bộ nhà bếp luôn luôn chầu chực. “Nhà tôi sực nhớ đến đứa con nhỏ ở nhà mà lòng bồi hồi xúc động”! Vấn đề nước khó khăn hơn vì chỉ có mỗi một cái giếng và khi lao động về phải sắp hàng tắm rửa.
Những người lớn tuổi chậm chân nên đến lượt mình thì đã tới giờ điểm danh trở về phòng nên không bao giờ được dùng nước.Tù phải viết bản báo cáo mỗi ngày, nói rõnhững gì bản thân họ đã phạm trước kia và những gì cha hay thân nhân họ đã làm. Nay mới thấy sự ích lợi của các cây bút BIC. Các bản báo cáo trở thành ác mộng của tù nhân.Viết ít chừng nào tốt chừng ấy và phải nhớ những gì đã viết để có thể viết lại những báo cáo sau. Ý đồ của quản trại là bắt tù từ bỏ niềm tin, chối bỏ lý tưởng và gia đình, khinh rẻ chế độ cũ và chửi rủa các cấp lãnh đạo cũ. Thật là khó khăn cho những ai thẳng thắn với những nguyên tắc có sẵn hay những người bản chất hiền hòa không biết chửi bậy.
Song viết ngắn quá cũng bị nghi ngờ là thiếu thành thật và tù bị gọi lên hạch hỏi đủ điều, chữa đi chữa lại. Kết quả là tù phạm tội nặng hơn để rơi vào bẫy sửa sai không ra thoát.
Có lệnh cho đi thăm tù. Những người như bà Đảnh là công nhân viên phải có giấy phép của cơ quan ghi rõ lý do nghỉ phép. Và chỉ được đem theo tối đa 5 kí thực phẩm và mỗi gia đình chỉ có ba người được đi thăm. Với bốn đứa con, đem đứa nào đi, để đứa nào lại? Trong khi thăm chồng phải ngồi hai bên bàn dài cùng những người khác, có cán bộ đứng đàu bàn lắng nghe. Phải nói to, không
được dùng ngoại ngữ. Vợ chồng trao đổi những vấn đề sức khỏe và kinh tế gia đình,bán chác quần áo cho các bà miền Bắc bây giờ ham chưng diện lắm. Khi hết giờ thăm,
tù đứng giậy nhặt gói quà trở về nhà giam.
Có người còn bị mắng vì ôm hôn người thân
hay căn dặn thêm vài điều. Trong phòng
những tiếng òa khóc nổi lên như sóng gió
trong cơn mưa bão. “Tôi cố nhịn khóc
nhưng khi về đến nhà vào phòng tôi bật khóc
lệ tràn như suối”.
Từ tháng 10/11, 1976 bà Đảnh không
nhận được thư nào của chồng nữa và biết là
chồng không còn ở Long Thành. Từ nay gửi
thư cho anh phải qua một địa chỉ mới tại
hòm thư A-40 khám Chí Hòa. Thư từ quà
bánh tối đa 3-5 kí phải gửi qua một địa điểm
ở một ngôi trường không xử dụng nữa. Hai
đứa con lớn phải đi thi hành các nghĩa vụ
công ích không lương, tối phải tạm trú tại
những chỗ nào tạm che mưa nắng. Đã có dấu
hiệu chống đối ngầm trong giới trẻ. Nhưng
chúng bị răn đe, phải cố gắng theo chỉ thị thì
cha anh mới được mau chóng tha về. Thật là
xảo trá, lợi dụng lòng thương xót cha anh để
ép chúng phục vụ.
Một ngày đen tối nhất của tháng 10 năm
1976, các tù được lệnh đổi trại giam. Đây là
lúc cán bộ lục lọi khám xét thủ tiêu mọi
chuyện. “Chồng tôi ghi chép nhật ký trong
một cuốn sổ tay nhỏ hầu mong kể lại cho
con những điều đã trải qua. Anh đã vội vã
thủ tiêu cuốn sổ”. Tù đươc chất trên các xe
vận tải, tay xích người nọ với người kia. Sau
hàng giờ đi vòng vo họ bi lùa xuống hầm tầu
thủy và chân bắt đầu bị khóa. Tầu đi ngang
qua một khu mà nhìn qua lỗ hổng hầm tầu
anh nhận ra cây cầu gần nhà, nơi đây vợ
con đang ở, rất gần anh nhưng xa, xa lắm.
Nước mắt anh dâng trào, không biết đang
đi về đâu, xa Sài Gòn vì đây là Tân Cảng.
Chừng 7 tháng sau cái địa chỉ kỳ quái Chí
Hòa, có một người tới gập bà Đảnh nhưng
không dám vào nhà. Ngó trước ngó sau, phải
trái, rồi anh vội nói, “Chồng chị đang bị
giam tại miền cực Bắc. Tôi cũng bị giam ở
đó nhưng vì vợ tôi là người Đức nên đã nhờ
tòa Đại Sứ Tây Đức can thiệp”. Mắt tràn lệ,
anh nói tiếp, “Chị biết chúng bắt tôi và anh
làm gì không? Ngày ngày gánh phân bón
rau và đó là việc nhẹ dành cho người yếu
sức”! Bà bật khóc thảm thiết, ngồi bệt xuống
vệ đường rồi anh bạn bỏ đi thật nhanh để
khỏi bị nhòm ngó.
“Chồng tôi chẳng phải là một ông lớn tại
miền Nam mà cũng không phải là các Tướng
Lãnh uy quyền. Nhưng anh thuộc loại có thể
khai thác được. Họ muốn biết vàng, đô la
hay các kho tàng của miền Nam chôn dấu ở
đâu. Họ hạch hỏi khai thác bắt làm việc đều
đều, nhưng cho là không thành khẩn khai
báo nên đầy ra miền Bắc cộng sản”. Hầm
tầu chật chội với các chất thải vệ sinh của tù
nên tạo ra một mùi hôi hám khủng khiếp
không tả nổi. Hành trình rất dài không ai nhớ
rõ. Sau cùng cũng tới hình như Hải Phòng và
chuyển lên các xe tải, chân vẫn xiềng xích.
Xe chạy qua một số làng xóm, dân làng đua
nhau la ó chửi bới và mọi người biết đây là
đất địch. Có các bà chửi, “Đồ Tàu Phù khốn
kiếp”! Thì ra họ tưởng là tù binh Trung
Quốc.
Cán bộ la to, “Đây không phải là tù binh
Trung Quốc”. Nhưng họ cũng không dám
bảo là tù miến Nam vì họ sợ phản ứng của
dân quê thật thà, thương hại hay cùng chia
xẻ nỗi đau buồn. Đêm tới thì đến một ven
rừng bát ngát. Tù được tháo cùm và lùa sâu
vào rừng rậm, đi bộ dăm bẩy cây số và đến
một hàng rào bao quanh một số trại. Các cán
bộ vào trại, để mặc tù lo liệu chỗ ngủ qua
đêm. Sáng hôm sau tù bỏ tay vào xây cất lấy
trại tù cho chính mình.
Đúng 31 tháng Chạp Dương Lịch các gia
đình tù nhận được một món quà chính thức
cuối năm, một lá thư của thân nhân đang bị
giam tại trại Bắc Thái. Ông Thảo không gập
lại những bạn tù Long Thành và phải bắt đầu
làm quen với các bạn tù mới. Tù được lệnh
trao cho một cán bộ gái tất cả tài sản, đồng
hồ, bút máy, nhẫn vòng tay, dây chuyền và
tiền mặt để được liệt vào một cuốn sổ ghi tên
sở hữu. Ông Thảo nhất định không đưa
chiếc nhẫn cưới với lý do vì lâu ngày không
kéo ra được. Sau khi dùng xà bông mà cũng
không xong thì họ văng tục và thôi không
thử tháo nữa. Ông nói dù họ có cố rút ra
nhưng nếu ông cố ý giữ thì cũng vô hiệu vì
ông nhất định không rời cái nhẫn cưới mà
ông coi là tượng trưng quý báu.
Ban quản trại đều là người Bắc khắc
nghiệt và khó tính. Tù thấy luôn luôn bị theo
rõi sát nút. Báo cáo hằng ngày bị phân tách
kỹ lưỡng, thảo luận và bị phê bình. Các cán
bộ hung dữ và lộng quyền, không ngớt tỏ ra
là người chiến thắng. Nhưng đừng lầm tưởng
họ thèm muốn những gì chúng ta có, họ thấy
chúng ta giỏi hơn họ trên mọi phương diện.
Họ luôn khiêu khích, nói xiên nói xỏ, đả kích
chê bai và phê bình. Và đây là tình trạng
khủng bố tinh thần kinh khủng.
Về phương diện vật chất vì quá đông
người nên trong phòng một tiếng động nhỏ
cũng vang âm. Một tiếng ho, một cái hắt xì
cũng khiến một số tù nhân thức giấc. Nhiều
bạn tù trong cơn ác mộng đã rên la, gào
khóc. Không ai quên được một bạn già cỡ
sáu chục, góa vợ với đứa con thơ dại nên
đêm đêm nức nở khi đi ngủ thương xót đứa
con bỏ lại miền Nam không ai săn sóc.
Giếng nước duy nhất rất gần trại nên phải
nấu sôi để uống. “Chồng tôi làm công tác hôi
thối gánh phân nên cần tắm rửa mỗi chiều
tối. Nhưng nước lạnh cóng khi xối lên người
thi da đỏ ửng. Anh còn đùa rằng, “thật may
là da và phổi còn tốt”.
Nhưng cái đói thật là kinh khủng. Khi còn
ở miền Nam thì nắm cơm còn thực là nắm
cơm đầy đủ gạo. Ở đây, cơm phải trộn những
hạt bo bo vỏ thật cứng thường phải xay ra để
cho súc vật ăn. Một số lớn không muốn hy
sinh bộ răng cấm nên phải ngồi nhặt các hột
No comments:
Post a Comment