Những dòng nước mắt trong những cảnh ngộ tang thương của các gia đình cựu tù “cải tạo”!
(Bài 2)
Hàn Giang Trần Lệ Tuyền
Có phải là tình yêu?
Tại thành phố Đà Nẵng, có rất nhiều người, nhất là những cựu tù “cải tạo” , và ngay bây giờ, khi nhắc lại, thì sẽ khiến cho họ nhớ đến một người cùng với những tiếng rao hàng, để bán kem. Vì người này, đã quá quen thuộc với người dân tại Đà Nẵng, cho nên người viết cứ nói ra họ, tên thật của vị cựu tù “cải tạo” này. Đó là, Thiếu tá Nguyễn Ngọc Dũng.
Trước năm 1975, Thiếu tá Dũng đã cưới một nữ sinh chỉ mới 17 tuổi làm vợ. Cô vợ trẻ này, dã được nhiều người biết đến là “người đàn bà chân không chạm đất”. Nói “chân không chạm đất”, không có nghĩa là cô ta chỉ ở mãi trên ghế, trên giường, mà bởi vì mỗi lần Th/tá Dũng muốn đưa vợ đi đâu, trong khi tài xế và xe hơi đang đợi ở trước nhà, thì người ta thấy Th/ t Dũng luôn luôn bế cô vợ trẻ đẹp trên tay, để đem đặt ngay trên ghế của xe, rồi mới cho xe chạy. Và, đến lúc trở về, khi xe dừng trước cửa nhà, thì Th/tá Dũng lại bước ra, để chính tay của ông mở cửa xe và lại bế cô vợ trẻ để đưa vào nhà, chứ không bao giờ để cho vợ phải đi ra xe, đi vào nhà bằng đôi chân của mình. Th/tá Dũng bảo: vì ông “cưng vợ, nên làm như thế”.
Nhưng: Chiến trường thử lửa lòng trai, Biệt ly mới biết lòng người chờ mong. Sau ngày 30/4/1975, tất cả quý vị Quân-Cán-Chính Việt Nam Cộng Hòa, khi đã đi vào các nhà tù “cải tạo”, thì sự “biệt ly”, không hoàn toàn có nghĩa là vĩnh biệt, vì họ vẫn còn sống, họ có thể gặp mặt thân nhân của mình ở những “nhà thăm nuôi”. Chỉ có những người thân đã đành đoạn bỏ rơi họ trong các trại “cải tạo”, còn riêng họ, vẫn từng ngày, hằng đêm đều mong nhớ đến vợ con và người thân của mình.
Nhắc lại những điều này, để nói lên cái tình nghĩa thân tình cốt nhục, mà đặc biệt nhất vẫn là tình nghĩa vợ chồng, vì người ta vẫn thường nói: “Con chăm Cha, không bằng bà chăm ông”.
Câu nói này, thật vô cùng chính xác, nhưng chỉ có một tình yêu chân thật, và chỉ có những người khi đã đến với nhau không vì một lẽ nào khác, mà bắt nguồn từ tấm lòng yêu thương tha thiết, thì dẫu sau đó, khi người chồng có gặp hoạn nạn, người vợ sẽ không thể đành tâm mà “Trăm năm hồ dễ ôm cầm thuyền ai”; mà họ sẽ hết lòng thương yêu chồng, thay chồng nuôi con cái. Song tiếc rằng, trước kia, đa số những người có chức quyền trong chế độ Việt Nam Cộng Hòa, đã chọn vợ bằng cặp mắt! Vì thế, sau khi bị vào tù rồi, thì người vợ của mình, cũng bị người khác chọn bằng cặp mắt.
Và, một trong những cảnh ngộ ấy, chính là Thiếu tá Dũng. Ông đã lầm lẫn, khi cứ ngỡ rằng cứ “cưng vợ” theo cái cách “không để cho đôi chân của vợ chạm đất” như thế, thì đương nhiên vợ của mình cũng đáp lại lòng thương yêu của mình trọn kiếp!
Quả đúng như thế, vì mọi sự ở trên cõi đời này, nếu không có những cuộc thử nghiệm về chất người, mà cái “phòng thử nghiệm” nổi tiếng đó, chính là các trại tù “cải tạo”, thì các vị QCCVNCH sẽ không làm sao biết được thế nào là tình yêu chân thật, là tình nghĩa phu thê.
Trường hợp của Th/ tá Dũng, đã là một trong nhiều cảnh ngộ khác: Ngày Th/tá Dũng đi vào tù, thì vợ chồng ông đã có bốn con, nhưng vợ ông còn trẻ, đẹp; và người vợ “chân không chấm đất” năm xưa, đã không những phải “chấm đất” mà lại còn “chấm” luôn vào những vũng sình của cuộc đời, rồi sau đó, đã lấy chồng, và có con. Những điều đó, đã chứng minh rằng, người vợ trẻ đẹp năm xưa đã lấy Th/tá Dũng làm chồng, không phải vì tình yêu chân thật.
Cay đắng tình người!
Cay đắng, lại càng thêm cay đắng, vì trong suốt sáu năm ở tù, Th/tá Dũng không được vợ thăm nuôi, nhưng ông không biết vợ mình đã lấy chồng, vì cứ ngỡ rằng, vì quá nghèo, nên vợ của mình không thể thăm nuôi. Do vậy, cho nên, ngày được ra tù, ông liền trở về căn nhà cũ, để tìm lại vợ con. Nhưng, chua xót, phũ phàng thay! Vì căn nhà của ông đã thay chủ tự bao giờ!
Ngày gặp lại “người vợ chân không chạm đất”, bây giờ “bà” đã chịu “chạm đất” để đem giao hết bốn đứa con cho ông. Vì là đàn ông, nên Th/tá Dũng đã nhận hết cả bốn con của mình, và đưa trở về sống tại căn nhà cũ tại Đà Nẵng.
Nhưng theo người viết, nếu Th/tá Dũng sáng suốt, thì sẽ không có thêm những sóng gió sau này. Song có lẽ, vì cô dơn, vì cần có một đôi tay, một bóng dáng của người phụ nữ, để có một “mái ấm”, cho nên Th/tá Dũng đã đón nhận một người phụ nữ, đã có năm con, nghe nói, chồng đã chết, và đưa về làm vợ của mình.
Người viết và Th/tá Dũng, thỉnh thoảng vẫn đến thăm nhau. Người viết đã chứng kiến gia đình của Th/tá Dũng, gồm có con ông, con bà và một con chung; tất cả là mười hai người, mà bà vợ sau này, lại không biết làm một việc gì để có thể phụ giúp ông Dũng để nuôi cả hai dòng con. Bởi vậy, nên Th/tá Dũng đã nghĩ ra một “nghề” mới. Đó là “nghề” bán kem, để nuôi cả gia đình.
Ngày ấy, hàng ngày, người dân tại thành phố Đà Nẵng, thường thấy một người đàn ông cao lớn, ngồi trên chiếc xe đạp cũ, phía sau là một thùng kem. Người bán kem đã đạp xe chạy quanh hết cả thành phố, với những tiếng rao “hàng”:
“Cà-rem cây đây! ai mua cà-rem,… ai mua cà-rem…”
Người bán cà-rem cây ấy, chính là Th/tá Dũng. Ông không ngại khó khăn, để đi bán kem hàng ngày, mà chỉ mong sao cho có cơm để nuôi sống cho cả gia dình là đủ. Nhưng thực ra, nếu không có lòng thương của đồng bào tại Đà Nẵng, thì Th/tá Dũng có lẽ khó có thể nuôi nổi cả gia đình với những đồng tiền bán kem.
Người viết vẫn còn nhớ, ngày ấy, người bán kem dạo ở Đà Nẵng rất nhiều; nhưng đồng bào ở các chợ cũng như trên đường phố, vì đã biết rõ hoàn cảnh của Th/tá Dũng, nên họ thường dành những đồng tiền để mua kem của ông Dũng, và có khi họ không lấy những đồng tiền nếu ít, được thối lại nữa.
Trước ngày vượt biển, người viết có đến tận nhà của Th/tá Dũng, vì muốn đưa ông đi cùng, nhưng sau đó, không quay trở lại, vì biết ông không thể ra đi một mình, mà người viết tự biết, không thể đưa cả gia đình ông gồm mười hai người đi vượt biển, vì không phải là chủ tầu.
Đến “miền đất hứa”:
Sau khi vượt biển, đã định cư tại Pháp, thì người viết đã nhận được thư của Th/tá Dũng, nói rằng sắp lên đường để đến “miền đất hứa” là nước Mỹ, theo diện tù “cải tạo”. Người viết thấy mừng cho ông, vì nghĩ rằng, gia đình ông sẽ hết những ngày gian khổ, đặc biệt, là người vợ và các con riêng của bà, sẽ hết lòng thương -quý ông, vì nhớ đến những ngày tháng ông mang thùng kem đi rao bán dạo trên khắp phố phường Đà Nẵng, vì họ đã sống bằng những đồng tiền bán kem với những giọt mồ hôi của ông đã rơi xuống trong những buổi trưa hè chói chang nắng nóng.
Nhưng không, ngày ông rời Việt Nam để sang Mỹ, chưa được bao lâu, thì người viết lại nhận được tin là vợ và các con riêng của bà, những con người đã từng sống bằng những đồng tiền bán kem của ông đã đành đoạn bỏ ông, không cho ông được sống chung nữa! Và, một lần nữa, Th/tá Dũng đã phải nuốt nước mắt, để ra đi!
Như vậy, cuộc đời của Th/tá Dũng, đã có hai người vợ, dù chân có chấm đất hay không, thì theo người viết, cả hai, họ không phải đến với Th/tá Dũng bằng một tình yêu chân thật. Người vợ trước, đã lấy ông vì danh, vì lợi, để được ông bế trên tay, để “chân không chấm đất”, còn người vợ sau đã lấy ông, để ông phải chịu làm người bán kem, để nuôi sống cho bản thân bà và các con riêng của bà mà thôi.
Và, để kết thúc câu chuyện của Th/tá Dũng, người viết muốn nói rằng: Để đo lường được lòng yêu thương của đàn bà, thì đàn ông đừng nên yêu, đừng nên chọn vợ bằng mắt; mà hãy yêu, hãy chon vợ bằng khối óc, để có được một người vợ sẽ hết dạ yêu thương chồng, cộng thêm sự kính trọng và lòng chung thủy vẹn tuyền.
Lời sau cùng, mà người viết muốn gửi đến Th/ Dũng: Người viết không bao giờ quên những sự quý mến của ông đã dành cho người viết và gia đình. Đồng thời, ngày xưa, lúc còn ở tại quê nhà, người viết đã từng nghe Th/tá Dũng vẫn thường nói: “Tôi luôn luôn đặt niềm tin vào Đấng Toàn Năng”.
Vậy thì, người viết chân thành cầu chúc cho ông sẽ luôn tìm thấy niềm tin, và niềm vui bên các con trong tay của Đấng Toàn Năng, trên suốt quãng đường còn lại của cuộc đời, sau hai lần đổ vỡ!
Pháp quốc, 7/6/2012
Hàn Giang Trần Lệ Tuyền
(Xin tái ngộ quý độc giả trong những bài kế tiếp)
No comments:
Post a Comment